đều đều, co ro vì lạnh và im bặt. Bản thân tôi cũng lơ mơ ngủ gật trong khi
cân nhắc xem liệu mình có buộc phải trả lại hai bảng cho kẻ kia hay không
trước khi y mất dạng, và cần làm việc đó thế nào cho tốt nhất. Trong lúc
đang đổ người dần về phía trước như thể sắp lao vào giữa lũ ngựa, tôi giật
mình choàng tỉnh và tiếp tục ngẫm nghĩ về câu hỏi vừa rồi.
Nhưng chắc hẳn tôi đã quên bẵng nó trong một thời gian dài hơn đã
nghĩ, vì dù không thể nhận ra được gì trong bóng tối cùng những quầng sáng
nhỏ và những cái bóng do đèn xe tạo ra, tôi cảm nhận được vùng quê đầm
lầy trong cơn gió ẩm lạnh buốt thổi hắt vào chúng tôi. Co người ra phía
trước để tìm chỗ ấm và chắn mình khỏi cơn gió, hai người tù khổ sai trở nên
gần sát tôi hơn lúc trước. Những lời đầu tiên tôi nghe thấy bọn họ trao đổi
với nhau khi định thần lại cũng là những từ chính tôi đang nghĩ tới, “Hai tờ
một bảng.”
“Làm thế nào hắn lại có chúng?” người tù tôi không biết mặt hỏi.
“Làm sao tao biết được?” gã kia đáp. “Hắn đã giấu chúng đi bằng
cách nào đó. Chắc của bạn hắn đưa, tao đoán vậy.”
“Ước gì,” người tù còn lại nói, kèm theo một tiếng rủa cay độc dành
cho cái lạnh, “tao có chúng ở đây.”
“Hai tờ một bảng, hay bạn bè?”
“Hai tờ một bảng. Tao sẵn sàng bán tuốt lũ bạn tao từng có để đổi lấy
một tờ và nghĩ rằng đó là một cuộc đổi chác cực hời. Thế nào? Vậy là hắn
nói thế…?”
“Vậy là hắn nói,” gã tù khổ sai tôi biết mặt nhắc lại, “tất cả được nói
và làm trong nửa phút, đằng sau một đống gỗ ở bến tàu, ‘Mày sắp được thả
à?’ Phải, đúng là thế. Và tao có đi tìm thằng nhóc đã cho hắn ăn và giữ bí
mật về hắn, rồi đưa cho nó hai tờ một bảng không? Có, tao sẽ làm thế. Và
tao đã làm.”
“Đồ ngốc,” gã còn lại hầm hừ. “Nếu là tao, tao đã tiêu sạch cho đồ
ăn đồ uống. Hắn chắc phải là một thằng còn ngố đặc. Nghĩa là hắn chẳng
biết gì về mày đúng không?”