“Khi ông vào khu Temple tối qua…” tôi nói, dừng lại để tự hỏi liệu
có thực sự là tối qua hay không, vì dường như đã một thời gian dài trôi qua.
“Sao cơ, chàng trai?”
“Khi ông tới cổng và hỏi người gác cổng đường lên đây, có ai đi
cùng ông không?”
“Đi cùng tôi ư? Không, chàng trai.”
“Nhưng có ai ở đó chứ?”
“Tôi không thực sự để ý,” vị khách nói khá mơ hồ, “vì không rõ
đường đi lối lại ở chỗ này. Nhưng tôi nghĩ còn có một người khác đến cùng
lúc với mình.”
“Hiện ở London có ai biết ông không?”
“Tôi hy vọng là không!” vị khách nói, đồng thời đưa ngón trỏ quẹt
nhanh ngang qua cổ một cái khiến tôi rùng mình như sắp phát ốm.
“Vậy trước đây ở London từng có ai biết ông chưa?”
“Chưa từng và không hề, chàng trai. Phần lớn thời gian tôi sống dưới
tỉnh.”
“Vậy có phải ông… đã bị xử… ở London không?”
“Lần nào?” vị khách hỏi kèm theo một cái nhìn sắc lẹm.
“Lần gần nhất.”
Ông gật đầu. “Nhờ vậy mà ban đầu tôi quen ông Jaggers. Jaggers
bào chữa cho tôi.”
Tôi đã chực hỏi ông ta bị xử vì tội gì, nhưng vị khách đã cầm dao ăn,
vung nó lên, và cùng với mấy lời, “Và những gì tôi đã làm thì đã làm xong
và trả giá!” trước khi lao vào bữa sáng.
Ông ăn ngốn ngấu rất chướng mắt, và tất cả cử chỉ của vị khách đều
thô lỗ, ồn ào, tham lam. Ông ta đã mất đi vài chiếc răng so với hồi tôi từng
thấy ông ta ăn trong đầm lầy, và trong lúc vị khách đảo thức ăn trong miệng,
quay đầu đi để mang những chiếc răng khỏe nhất tới mà nhai, trông ông ta
giống hệt một con chó đói. Nếu lúc bắt đầu bữa tôi có từng cảm thấy chút