với ông ấy muốn có một cô bé con để nuôi nấng, yêu thương và cứu vớt
khỏi số phận của ta. Ta gặp ông ấy lần đầu tiên khi ta mời ông ấy tới giúp ta
biến nơi này thành một nơi cô lập; vì ta đã đọc được về ông ấy trên báo
trước khi ta và thế giới đoạn tuyệt. Ông ấy nói với ta sẽ tìm xem có đứa trẻ
mồ côi nào như thế không. Đến một buổi tối, ông ấy mang con bé đang ngủ
say về đây, và ta đặt tên cho con bé là Estella.”
“Tôi có thể biết hồi đó cô ấy mấy tuổi không?”
“Hai hay ba tuổi. Bản thân nó không biết gì ngoài chuyện nó mồ côi
và được ta nhận nuôi.”
Đã quá chắc chắn về việc người phụ nữ kia chính là mẹ Estella, tôi
không cần thêm bằng chứng nào nữa để xác lập thực tế ấy trong đầu mình.
Nhưng theo tôi nghĩ, với bất cứ bộ óc nào, mối liên hệ ở đây cũng đã rõ ràng
và trực quan.
Tôi còn có thể hy vọng làm gì thêm nữa với việc kéo dài cuộc trò
chuyện này đây? Tôi đã thành công trong việc giúp Herbert, cô Havisham đã
kể cho tôi biết tất cả những gì bà biết về Estella, tôi đã nói và làm những gì
có thể để an ủi bà. Chúng tôi có chia tay với những lời nào khác nữa cũng
chẳng còn gì quan trọng; chúng tôi chia tay.
Trời đã chạng vạng khi tôi xuống cầu thang ra với bầu không khí tự
nhiên. Tôi gọi người phụ nữ đã mở cổng khi tôi vào, cho hay tôi vẫn chưa
quấy quả bà ngay mà sẽ đi vòng quanh nhà trước khi ra về. Vì tôi có một dự
cảm sẽ không bao giờ trở lại đây nữa, và cảm thấy ánh hoàng hôn đang tắt
dần rất thích hợp cho lần cuối cùng tôi ngắm nhìn nó.
Men theo đống vỏ thùng bị bỏ mặc tôi từng bước lên trên cách đây
đã lâu lắm, và trên đó mưa đã trút xuống suốt bao năm, làm chúng mục nát ở
nhiều chỗ, để lại những vũng lầy và vũng nước nhỏ trên những vỏ thùng vẫn
còn đứng vững, tôi lần bước tới khu vườn bị bỏ hoang. Tôi đi vòng quanh
nó; vòng qua góc vườn nơi Herbert và tôi đã quyết đấu với nhau; vòng qua
những lối đi nơi Estella và tôi từng dạo bước. Tất cả thật lạnh lẽo, thật cô
quạnh, thật ảm đạm làm sao!