chúng sẽ có nhiều hy vọng và ít vô vọng hơn nếu tôi ở gần chúng. Trong tâm
trạng bứt rứt vô lý này cùng nỗi đau giày vò trong tâm trí, tôi lang thang qua
các con phố, nấn ná quanh các cơ quan và tòa nhà nơi tôi để lại các đơn
thỉnh nguyện. Vào giờ này, những con phố buồn thiu của khu Tây London
trong một tối mùa xuân lạnh lẽo, bụi bặm, với những dãy nhà lạnh lùng
đóng kín và những dãy đèn đường dài, tất cả kết hợp lại trong mắt tôi quả là
một cảnh tượng rầu rĩ.
Những cuộc vào thăm hằng ngày tôi có thể dành cho ông giờ đây bị
rút ngắn lại, và ông bị giam giữ nghiêm ngặt hơn. Nhìn thấy, hay tưởng
tượng ra, rằng tôi bị nghi ngờ có ý định mang thuốc độc cho Magwitch, tôi
yêu cầu được khám người trước khi ngồi xuống cạnh giường ông, và nói với
người canh tù là tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trấn an ông ta là tôi chỉ có
một mục đích duy nhất. Không ai tỏ ra khắc nghiệt với ông hay với tôi.
Người canh tù luôn quả quyết với tôi ông đang yếu đi, và một số tù ốm khác
trong phòng, cũng như một số tù nhân khác làm hộ lý chăm sóc cho họ
(những kẻ phạm pháp, nhưng không phải không có từ tâm, ơn Chúa!) cũng
luôn đồng tình như vậy.
Từng ngày trôi qua, tôi thấy ông ngày càng nằm nhiều hơn điềm tĩnh
nhìn lên trần nhà quét vôi trắng, với khuôn mặt vắng bóng sinh khí cho tới
khi vài lời tôi nói làm nó sáng bừng lên trong khoảnh khắc, rồi sau đó chút
sinh khí ấy lại tắt lịm đi. Đôi lúc, ông gần như không thể nói được hoặc nói
rất khó khăn, những lúc như thế ông sẽ trả lời tôi bằng cách siết nhẹ lấy bàn
tay tôi, và dần tôi trở nên hiểu rất rõ ý ông muốn bày tỏ.
Được mười ngày thì tôi thấy một thay đổi lớn hơn ở ông so với trước
đó. Đôi mắt ông nhìn về phía cửa, và sáng lên khi tôi bước vào.
“Chàng trai thân mến,” ông nói trong khi tôi ngồi xuống bên giường:
“Tôi cứ nghĩ cậu đến muộn. Nhưng tôi biết cậu không thể đến muộn.”
“Vừa đúng giờ thôi,” tôi nói. “Tôi đã đợi ngoài cổng.”
“Cậu vẫn luôn đợi ngoài cổng; phải không nào, chàng trai thân
mến?”
“Đúng thế. Không thể để mất một khoảnh khắc nào.”