bước đi trên các vỏ thùng bộng, đếm số lượng chúng để ghi vào catalog, bút
cầm trên tay, ông ta đang dùng chiếc xe đẩy tôi vẫn hay đẩy đi trong lúc
ngân nga bài hát về Clem Già làm bàn viết tạm thời.
Khi quay lại với bữa sáng của mình trong phòng uống cà phê của nhà
trọ Lợn Lòi Xanh, tôi bắt gặp ông Pumblechook đang trò chuyện với chủ
nhà. Ông Pumblechook (ngoại hình ông chẳng hề được cải thiện vì cuộc
phiêu lưu đêm muộn) đang đợi tôi, và nói với tôi bằng những lời sau đây:
“Chàng trai trẻ, ta lấy làm tiếc phải thấy cậu tụt xuống thấp. Nhưng
còn có thể trông đợi gì khác đây! Còn có thể trông đợi gì khác đây!”
Vì ông ta chìa bàn tay ra với vẻ tha thứ đầy cao thượng, và cũng vì
tôi đang bị trận ốm làm suy nhược và không đủ sức để đôi co, tôi đành bắt
tay ông.
“William,” ông Pumblechook nói với người hầu bàn, “hãy bày một
cái bánh nướng lên bàn. Và đặt nó lên bàn này! Đặt nó lên bàn này!”
Tôi cau mày ngồi xuống ăn sáng. Ông Pumblechook đứng bên cạnh
tôi và rót trà cho tôi - trước khi tôi kịp với tới ấm trà - với bộ dạng của một
người ban ơn quyết tâm trọn vẹn đến cùng.
“William,” ông Pumblechook lên tiếng đầy tang thương, “cho muối
vào. Vào những thời điểm vui vẻ hơn,” ông ta nói với tôi, “ta nghĩ cậu từng
dùng đường nhỉ? Và cậu có dùng sữa không? Có dùng. Đường và sữa.
William, mang một suất cải xoong đến đây.”
“Cảm ơn ông,” tôi cắt ngang, “nhưng tôi không ăn cải xoong.”
“Cậu không ăn cải xoong,” ông Pumblechook đáp, thở dài và gật đầu
vài lần, như thể ông ta đã trông đợi chuyện này, và như thể việc không chịu
ăn cải xoong gắn liền với sự suy sụp của tôi. “Phải. Thứ rau đơn sơ của đất.
Không. Anh không cần mang tới nữa, William.”
Tôi tiếp tục ăn bữa sáng, và ông Pumblechook tiếp tục đứng bên
cạnh tôi, nhìn trừng trừng như mắt cá, thở phì phò ầm ĩ, như ông ta vẫn làm
như thế.