lên bia mộ ông rằng, Cho dù ông ấy đã làm sai những gì, Những ai đọc bia
này hãy nhớ tận trong tim ông ấy là người tốt.”
Joe tự hào nhắc lại hai câu này một cách rất cẩn thận, đến độ tôi hỏi
có phải anh đã tự nghĩ ra chúng không.
“Anh đã nghĩ ra đấy,” Joe nói, “chính anh. Anh nghĩ ra mấy câu này
trong một khoảnh khắc. Cứ như làm ra một cái móng ngựa hoàn chỉnh chỉ
bằng một nhát búa vậy. Cả đời anh chưa bao giờ thấy ngạc nhiên đến thế -
không dám nghĩ đó là của mình nghĩ ra - nói thật với cậu, anh hầu như
không tin nổi là do chính mình nghĩ ra. Như anh vừa nói với cậu, Pip, anh
vẫn muốn khắc mấy câu đó lên bia mộ cho ông ấy; thế nhưng văn hoa thì lại
tốn tiền, cho dù cậu muốn khắc thế nào đi nữa, dù to dù nhỏ, vậy nên chuyện
này vẫn chưa được làm. Chưa kể phải trả tiền cho những người khuân quan
tài, tất cả tiền anh dành dụm được đều cần dùng cho mẹ anh. Sức khỏe bà rất
kém, và hồi ấy gần như bà đã suy sụp. Tội nghiệp mẹ anh, chẳng bao lâu sau
bà cũng đi theo bố anh, và cuối cùng bà cũng có được phần bình yên cho
mình.”
Đôi mắt xanh của Joe đã hơi ươn ướt; anh dụi một bên mắt, rồi đến
bên kia, một cách không mấy phù hợp và thoải mái, bằng cái nắm tròn trên
chốt cán que cời lò.
“Hồi đó anh thật cô quạnh,” Joe kể, “phải thui thủi sống một mình ở
đây, rồi anh quen chị gái em. Còn bây giờ, Pip,” Joe nhìn tôi thật quả quyết
như thể đã biết tôi sẽ không tán thành anh, “chị gái em là một phụ nữ thật
đẹp đẽ.”
Tôi không đừng được mà nhìn chằm chằm vào ngọn lửa trong trạng
thái rõ ràng là ngờ vực.
“Cho dù cậu có nghĩ thế nào, người đời có nghĩ thế nào đi chăng
nữa, Pip, chị gái cậu,” Joe nói, và cứ sau mỗi từ tiếp theo lại dùng que cời lò
gõ lên thanh chắn trên cùng, “một - phụ - nữ - đẹp - đẽ!”
Tôi chẳng thể nghĩ ra gì hay hơn để nói ngoài, “Em thấy mừng vì
anh nghĩ thế, Joe.”