một nhóm người quần áo lam lũ đứng ngó nhìn qua cửa sổ lắp kính của cửa
hàng, dường như là người duy nhất trên phố High có công việc đòi hỏi ông
ta phải tận tâm chú ý.
Ông Pumblechook và tôi ăn sáng lúc tám giờ trong phòng khách
đằng sau cửa hàng, trong khi người quản lý cửa hàng ngồi uống trà và ăn
bánh mì phết bơ trên một bao đậu ngay trước cửa hàng. Tôi thấy thật kinh
khủng khi phải ở cạnh ông Pumblechook. Ngoài việc bị ám ảnh ý tưởng từ
chị gái tôi rằng nhất thiết phải làm cho chế độ ăn uống của tôi thể hiện thật
rõ tính chất khổ hạnh và trừng phạt - ngoài việc dành cho tôi càng nhiều
bánh vụn và càng ít bơ càng tốt, đồng thời cho vào sữa của tôi nhiều nước
ấm đến mức nếu thẳng thắn hơn thì đừng cho sữa vào cho xong - những câu
trò chuyện của ông chỉ toàn về những phép toán. Khi tôi lễ độ chúc ông buổi
sáng tốt lành, ông kênh kiệu hỏi lại, “Bảy lần chín là mấy, cậu bé?” Và làm
sao tôi trả lời cho được khi bị vặn hỏi theo cách ấy, ở một nơi xa lạ, với một
cái bụng rỗng tuếch! Tôi đang đói lả, nhưng tôi chưa kịp nuốt miếng nào,
ông đã bắt đầu một chuỗi phép cộng kéo dài suốt cả bữa ăn sáng. “Bảy?”
“Cộng bốn?” “Cộng tám?” “Cộng sáu?” “Cộng hai?” “Cộng mười?” Và cứ
thế mãi. Và sau khi mỗi phép cộng được giải đáp, hầu như tôi chỉ vừa kịp
cắn một miếng hay uống một ngụm thì câu hỏi tiếp theo đã tới; trong khi
ông thì thoải mái ngồi đó chẳng phải đoán gì, ngốn ngấu ăn hùng hục (nếu
tôi được phép sử dụng cách diễn đạt này) thịt muối và bánh nướng nóng hổi.
Vì những lý do vừa kể, tôi mừng không kể đâu cho hết khi chuông
đồng hồ điểm mười giờ và chúng tôi lên đường tới nhà cô Havisham; cho dù
tôi chẳng hề thấy thoải mái chút nào về cách ứng xử tôi sẽ phải làm quen
dưới mái nhà quý bà này. Trong vòng mười lăm phút chúng tôi đã tới nhà cô
Havisham, một ngôi nhà cũ xây bằng gạch, lạnh lẽo, quanh nhà có rất nhiều
song sắt to tướng. Một số cửa sổ đã bị xây bít kín; trong những ô cửa còn
lại, tất cả cửa sổ ở tầng dưới đều bị bịt bằng những chấn song gỉ sét. Có một
khoảng sân đằng trước, và quanh sân cũng có hàng rào; vậy là sau khi rung
chuông chúng tôi buộc phải đợi cho tới khi có người ra mở cửa. Trong khi
đứng đợi ngoài cổng, tôi ngó vào trong (ngay cả lúc ấy ông Pumblechook
vẫn hỏi, “Cộng mười bốn?” nhưng tôi giả bộ không nghe thấy), và thấy ở