cạnh ngôi nhà có một xưởng ủ bia lớn. Nhưng trong đó chẳng có mẻ bia nào
đang được ủ, và có vẻ đã lâu lắm không còn mẻ bia nào được ủ trong đó.
Một ô cửa sổ mở ra, và một giọng nói rành rọt cất lên hỏi, “Ai vậy?”
Và người dẫn tôi trả lời, “Pumblechook.” Giọng nói kia đáp, “Đúng rồi,” và
ô cửa sổ lại đóng lại, rồi một cô gái băng qua sân đi tới, trong tay cầm chùm
chìa khóa.
“Đây là Pip,” ông Pumblechook nói.
“Đây là Pip phải không?” cô gái trẻ đáp lại, cô này rất đẹp và có vẻ
rất kiêu kỳ. “Vào đi, Pip.”
Ông Pumblechook cũng định vào thì cô gái đóng cổng ngăn ông này
lại.
“Ồ!” cô gái nói. “Ông muốn gặp cô Havisham à?”
“Nếu cô Havisham muốn gặp tôi,” ông Pumblechook lúng túng đáp.
“À!” cô gái nói, “nhưng ông thấy đấy, bà ấy không muốn gặp ông.”
Cô gái nói rất kiên quyết, với giọng điệu không cho phép bàn cãi,
đến mức ông Pumblechook, mặc dù đang bị đụng chạm đến lòng tự tôn,
cũng không thể phản đối. Nhưng ông nhìn tôi thật khắc nghiệt cứ như thể tôi
đã làm gì ông! Rồi quay về sau khi đã nói xong mấy lời đầy trách cứ: “Cậu
bé! Hãy cư xử khi ở đây sao cho xứng đáng với những người đã nuôi nấng
cậu!” Tôi không gạt bỏ được nỗi sợ ông sẽ quay lại hỏi với qua cổng, “Cộng
mười sáu?” Nhưng ông Pumblechook đã không làm thế.
Cô dẫn đường trẻ tuổi của tôi khóa cổng lại, và hai chúng tôi băng
qua sân. Khoảng sân được lát tinh tươm và sạch sẽ, nhưng cỏ dại đang mọc
chồi lên qua mọi kẽ nứt. Có một lối đi nhỏ dẫn sang xưởng ủ bia, và hai
cánh cổng gỗ dẫn vào lối đi ấy đang mở toang, cả nhà xưởng đằng sau cũng
mở toang, mãi cho tới tận bức tường bao cao ngất; khắp bên trong đều trống
trơn, hoang vắng. Cơn gió lạnh dường như lạnh hơn khi thổi qua trong đó so
với bên ngoài cổng; và cơn gió tạo thành tiếng rít nhói buốt khi nó rền rĩ
luồn vào rồi chui ra qua hai bên thông thống của nhà xưởng, giống như tiếng
gió thổi qua dây chằng buồm của một con tàu ngoài biển.