Ông Pumblechook và bà Joe lại tròn mắt nhìn nhau, kinh ngạc tột
bậc. Tôi đang thực sự phát điên lên vì lo lắng - một nhân chứng liều lĩnh
dưới đòn tra tấn - nên sẵn sàng nói với họ bất cứ điều gì.
“Cỗ xe ấy đỗ ở đâu hả, nhân danh Chúa lòng lành?” chị tôi hỏi.
“Trong phòng cô Havisham.” Hai người kia lại tròn mắt. “Nhưng
không có con ngựa nào thắng vào xe cả.” Tôi nói thêm mấy từ cứu nguy này
trong cùng khoảnh khắc loại bỏ ý tưởng hoang đường về bốn con tuấn mã
trang hoàng lộng lẫy tôi vốn định thắng vào xe.
“Liệu có thể thế được không bác?” bà Joe hỏi. “Thằng nhóc có ý gì
vậy?”
“Tôi sẽ giải thích để chị hiểu, bà mẹ,” ông Pumblechook nói. “Theo
ý tôi thì đó là một cỗ kiệu. Bà ấy khá khác người, chị biết đấy - rất khác
người - đủ khác người để ngồi cả ngày trên một cỗ kiệu.”
“Bác đã bao giờ thấy phu nhân ngồi trên đó chưa?” bà Joe hỏi.
“Làm sao tôi thấy được chứ,” ông Pumblechook đáp lại, buộc phải
thừa nhận, “khi cả đời tôi chưa bao giờ gặp mặt bà ấy? Tôi đã bao giờ tận
mắt thấy bà ấy đâu!”
“Chúa ơi, bác! Thế nhưng bác đã nói chuyện với bà ấy cơ mà?”
“Sao chứ, chị không biết sao,” ông Pumblechook đáp quả quyết, “khi
tôi ở đó, tôi được dẫn tới bên ngoài cửa phòng bà ấy, cửa phòng mở hé, và
phu nhân nói chuyện với tôi như thế. Đừng có nói là chị không biết điều đó
chứ, bà mẹ. Dù sao thì cậu bé đến đó cũng để chơi. Cháu đã chơi gì, cậu
bé?”
“Chúng cháu chơi với những lá cờ,” tôi nói. (Tôi xin phép nhận xét
là tôi không khỏi kinh ngạc mỗi khi nhớ lại những lời nói dối của mình hôm
ấy.)
“Cờ à!” chị tôi nhắc lại.
“Vâng,” tôi nói. “Estella phất một lá cờ xanh, còn cháu phất cờ đỏ,
còn cô Havisham phất một lá cờ thêu đầy những ngôi sao vàng nhỏ xíu qua