Mẹ tôi lắc đầu. Người này trông như một bà già quái đản, thấp và mập
mạp, chẳng giống đứa trẻ bơ vơ đói khát như mẹ hình dung hoặc như người
chị đang tuổi thanh xuân, đẹp quyến rũ trong đầu tôi. Chị mặc đồ bộ màu
nâu xám, bộ mặt to, rám nắng đóng khung bằng hai bím tóc dày.
Quan chẳng có vẻ gì bẽn lẽn. Chị buông cái túi, vẫy vẫy hai cánh tay, gào
to:
- Hall-oo! Hall-oo! - Vừa hét toáng lên vừa cười, chị nhảy nhót và kêu ré
lên y như con cún mới mua của chúng tôi thường làm, mỗi khi chúng tôi
thả nó ra ngoài garage. Con người hoàn toàn xa lạ này lao vào vòng tay mẹ,
rồi vào vòng tay dượng Bob. Lúc nhìn thấy tôi, chị nín lặng, ngồi xổm trên
sàn hành lang và chìa tay ra. Tôi nắm lấy tà váy mẹ.
- Đấy là chị con à?
Mẹ nói:
- Con nhìn này, chị có mái tóc đen, dày y như cha các con.
Tôi vẫn còn bức ảnh dì Betty chụp: Mẹ tôi tóc quăn, mặc đồ nỉ, thoáng
một nụ cười mưu mô; Bob, bố dượng người Ý-Mỹ của chúng tôi có vẻ
sững sờ; Kevin và Tommy đội mũ cao bồi trông ngây ngô; Quan cười toe
toét, đặt tay lên vai tôi; còn tôi mặc bộ dạ hội phù phiếm, một ngón tay đút
vào miệng đang gào khóc.
Tôi khóc vì ngay trước khi chụp ảnh, Quan đã cho tôi một món quà. Đó
là một cái lồng nhỏ bện bằng rơm, chị rút từ trong tay áo khoác rộng thùng
thình và đưa cho tôi, vẻ tự hào. Lúc giơ nó lên ngang tầm mắt và nhìn qua
các nan lồng, tôi thấy một con quái vật sáu chân, màu xanh như cỏ tươi,
hàm như lưỡi cưa, mắt lồi và lông mày như những ngọn roi. Tôi hét lên và
quẳng cái lồng ra xa.
Ở nhà, trong căn phòng từ nay ở chung với tôi, Quan treo cái lồng nhốt
con châu chấu đã bị rụng một chân. Màn đêm vừa buông, con châu chấu
bắt đầu kêu rinh rích, to như chuông xe đạp báo người khác tránh đường.
Sau ngày hôm đó, cuộc sống của tôi chẳng còn như cũ. Với mẹ, Quan là
một người trông trẻ khéo léo, tự nguyện, lành nghề và miễn phí. Trước khi