thì ai là người tình khác của cô ấy? Vì sao hồi đó cô ấy lại chửi mắng
Simon như tát nước? Không thể có câu trả lời thỏa đáng.
Kể từ cuộc trò chuyện với người âm của chúng tôi và Quan nhiều năm
trước, Simon và tôi tránh nhắc đến tên Elza. Giờ đây chúng tôi càng im thin
thít gấp đôi, không thể thảo luận về sự vô sinh của Simon, những câu hỏi
về Elza hoặc cảm nghĩ của chúng tôi về thụ tinh nhân tạo hoặc nhận con
nuôi. Hết năm này sang năm khác, chúng tôi tránh nói đến trẻ con, thực tế
hay tưởng tượng hoặc hy vọng có, cho đến khi chúng tôi ở đó, trên đầu cầu
thang tầng ba, cả hai chúng tôi thông báo cho một người xa lạ đáng ghét tên
là Lester rằng “Không có trẻ con”, như thể chúng tôi đã quyết định từ nhiều
năm trước và bây giờ là quyết định cuối cùng.
Lester lục tìm hàng chục chìa khoá treo trên dây.
- Nó ở đây mà, - anh ta lẩm bẩm. - Chắc là chiếc cuối cùng. Vâng, các vị
không biết… à đây rồi!
Anh ta nhún nhảy mở cửa và vỗ vào tường cho đến khi thấy công tắc
đèn. Thoạt nhìn căn hộ dường như quen thuộc, như thể trước kia tôi đã đến
thăm nơi này một ngàn lần, ngôi nhà hò hẹn trong những giấc mơ ban đêm.
Mọi thứ ở đó: những cánh cửa kép nặng nề bằng gỗ sồi có những ô kính
gợn sóng kiểu cổ, hành lang rộng rãi chân tường ốp gỗ sồi đen, cửa sổ con
để ánh sáng rọi qua, lấp lánh những hạt bụi lưu cữu. Giống như tôi trở lại
ngôi nhà xưa và không thể biết cảm giác quen thuộc này là thoải mái hay
ngột ngạt. Lúc đó, Lester vui vẻ tuyên bố rằng chúng ta bắt đầu bằng ngó
qua “phòng đón tiếp”, và cảm giác ấy tan biến.
- Cấu trúc là thứ chúng tôi gọi Eastlake và gothic phục hưng, - Lester nói
với chúng tôi. Anh ta giải thích tiếp vì sao nơi này trở thành nhà trọ cho
những người bán hàng rong và những quả phụ thời chiến những năm hai
mươi. Trong những năm bốn mươi, “gothic phục hưng” biến thành “nơi
làm việc vặt đặc biệt” khi ngôi nhà cải tạo thành 24 xưởng xinh xắn, là nơi
ăn chốn ở rẻ tiền thời chiến. Trong những năm sáu mươi, nó thành nhà trọ
cho sinh viên, và khi bất động sản lên giá đầu những năm tám mươi, ngôi