thứ cho mẹ”. Đấy là câu tôi muốn nghe. Tôi tự hỏi trong thực tế, bà sẽ nói
gì với tôi.
- Lasagne, - Quan buồn bã nói.
- Gì vậy?
- Mẹ Lớn hỏi chúng ta ăn gì. Bà bảo bà rất tiếc không có thời gian thử
món ăn Mỹ.
- Lasagne là món ăn Ý.
- Xì! Xì! Chị biết, nhưng em nói với bà như thế, bà lại tiếc không có thời
gian đi thăm nước Ý. Lúc nào cũng có quá nhiều thứ để tiếc.
Tôi nhoài người về phía Quan và lầm bầm:
- Mẹ Lớn không hiểu tiếng Anh chứ?
- Chỉ biết thổ ngữ Xướng Miên và ít lời nói thầm. Sau khi mất lâu hơn,
học được nhiều lời nói thầm hơn, có khi còn vài tiếng Anh…
Quan cứ nói, còn tôi mừng vì chị không chìm đắm trong nỗi tiếc thương,
vì tôi không biết làm thế nào để giải thoát cho chị.
-… Người âm, sau một thời gian, chỉ nói thầm. Dễ hơn, nhanh hơn cách
này. Không hiểu nhầm các từ.
- Nói thầm như thế nào?
- Chị kể với em rồi.
- Thế ư?
- Nhiều lần. Không dùng lưỡi, môi, răng để nói. Chỉ dùng hàng trăm linh
cảm bí ẩn.
- Ồ phải, phải rồi. - Tôi nhớ lại nhiều đoạn chuyện này: những linh cảm
liên quan đến bản năng cổ xưa, con người có từ trước khi bộ não phát triển
thành tiếng nói và những chức năng cao hơn - như khả năng nói lập lờ, nại
cớ, nói dối. Ớn lạnh xương sống, mùi thơm ngào ngạt, nổi gai ốc và đỏ ửng
má… tất cả là từ vựng của các cảm giác bí ẩn. Tôi suy nghĩ.