thích trên đất Trung Hoa. Vì thế các nhà truyền giáo vào sâu trong đất liền,
theo dòng Tây Giang đến Kim Điền. Cô Banner đi cùng họ.
Hội Truyền giáo là một biệt khu lớn, ở giữa có một sân rộng và bốn sân
nhỏ hơn, ngôi nhà chính to, đẹp mắt, với ba ngôi nhà nhỏ hơn. Nhiều hành
lang có mái nối mọi chỗ với nhau. Xung quanh có tường cao, tách biệt hẳn
bên trong với bên ngoài. Từ hơn một trăm năm nay nơi đó chưa có ai ở. Chỉ
có những người nước ngoài mới dám ở lại ngôi nhà bị nguyền rủa đó. Họ
bảo họ không tin có các hồn ma Trung Hoa.
Dân địa phương bảo Lão Lục:
- Đừng sống ở đấy. Nhà ấy bị các linh hồn cáo săn đuổi.
Nhưng Lão Lục nói lão không sợ gì hết. Lão là một cu li Quảng Đông,
đã mười đời làm cu li! Lão đủ sức làm việc đến lúc chết, đủ khôn ngoan để
tìm ra câu trả lời cho những gì lão muốn biết. Ví dụ, nếu bạn hỏi lão phụ nữ
nước người mặc quần áo gồm bao nhiêu cái, lão sẽ không đoán ra và nói
khoảng hàng chục. Lúc các bà đi ăn, lão sẽ vào phòng họ và đếm từng
chiếc, lẽ tất nhiên không lấy trộm cái nào. Lão kể cô Banner có hai đôi
giày, sáu đôi găng, năm cái mũ, ba bộ váy dài, hai đôi tất đen, hai đôi tất
trắng, hai đôi quần lót, một cái ô, bảy thứ khác trong trang phục nhưng lão
không rõ nó che bộ phận nào trên người.
Qua Lão Lục, tôi nhanh chóng biết nhiều thứ về người nước ngoài. Mãi
sau này lão mới kể với tôi vì sao dân địa phương cho là ngôi nhà bị nguyền
rủa. Nhiều năm trước, nó là biệt thự mùa hè của một thương nhân đã chết
rất bí ẩn và kinh hoàng. Sau đó, bốn bà vợ của ông ta chết hết, lần lượt từng
người một, người trẻ nhất chết đầu tiên, người già nhất sau cùng, tất cả đều
chết vào lúc trăng tròn từ tháng này tiếp tháng kia.
Giống như Lão Lục, tôi không dễ sợ hãi. Nhưng phải nói với Libby-ah
rằng, những chuyện xảy ra ở đó năm năm sau làm chị tin hồn ma của vị
thương nhân ấy đã trở về.