Không người nào trong chúng tôi, kể cả mẹ tôi, gặp Quan, cho đến khi
chị mười tám tuổi. Thực ra, mẹ tôi còn không biết Quan tồn tại, mãi cho
đến khi cha tôi sắp mất vì suy thận. Khi cha tôi qua đời, tôi chưa tròn bốn
tuổi. Nhưng tôi vẫn còn nhớ nhiều khoảnh khắc với ông. Ngã từ đường
trượt xoáy vào vòng tay ông. Lội vào vũng tìm đồng xu ông tung xuống.
Ngày cuối cùng tôi nhìn thấy ông là trong bệnh viện, những điều ông nói
làm tôi hoang mang trong nhiều năm.
Kevin lên năm cũng ở đó. Tommy còn quá bé nên ở ngoài phòng đợi với
Betty Dupree, em họ của mẹ tôi - chúng tôi phải gọi là dì Betty - cũng
chuyển từ Idaho đến. Tôi ngồi trong cái ghế bọc nylon nhớp nháp, ăn bát
dâu tây Jell-O
trong suất ăn trưa của cha cho tôi. Ông ngóc đầu dậy trên
giường, thở nặng nhọc. Mẹ tôi khóc một chút, rồi cố làm ra vẻ vui. Tôi cố
nghĩ xem có chuyện gì. Việc tiếp theo tôi nhớ là cha tôi nói thì thào, còn mẹ
tôi cúi gần ông, lắng nghe. Miệng bà cứ há to, to mãi. Rồi bà quay ngoắt
đầu sang tôi, mặt bà méo đi kinh hoàng. Tôi cũng phát hoảng. Sao cha tôi
lại biết? Sao cha phát hiện ra sáng hôm ấy tôi đã xua mấy con rùa của tôi -
Slowpoke và Fastpoke - vào toilet? Tôi muốn xem trông chúng như thế nào
khi không có mai, rồi cuối cùng kéo bật đầu chúng.
- Con gái anh? - Tôi nghe thấy mẹ nói. - Mang nó về?
Tôi chắc ông bảo mẹ tôi đưa tôi đến khu nhốt gia súc, y như ông đã làm
với con chó Buttons của chúng tôi sau khi nó gặm chiếc sofa. Những việc
tôi còn nhớ sau đó rất lộn xộn: bát Jell-O đổ xuống sàn; mẹ tôi nhìn trừng
trừng vào một tấm ảnh; Kevin vồ lấy nó và cười, rồi tôi thấy tấm ảnh đen
trắng ấy chụp một cô bé gầy giơ xương, tóc lởm chởm. Đúng lúc đó, tôi
nghe thấy mẹ tôi quát:
- Olivia, đừng cãi nhau nữa, các con phải về ngay.
Tôi khóc:
- Nhưng con sẽ ngoan mà.
Ngay sau đó, mẹ tôi tuyên bố:
- Cha sắp bỏ chúng ta.