Từ hai mươi năm nay, Joséphine ở cuối đường Chablis, gần như giữa
đồng không mông quạnh. Không một ngôi nhà, không đâu, chỉ có một vài
tấm gỗ mà mưa gió đã làm cho mốc đen và nhờ một điều kỳ diệu nào đó
mà chúng vẫn đứng vững với nhau được. Một túp lều tối sẫm như than, bọn
trẻ đi qua cũng phải sợ. Ai cũng nghĩ là túp lều đó chất ngất nào là da thối,
súc vật chết, chim bị phanh thây và chuột bị người ta lấy đinh đóng chân
lên ván. Không ai vào túp lều đó bao giờ.
Tôi thì tôi đã đến đó hai lần. Nói ra không ai tin. Vào đó như đi qua cổng
địa ngục và xuất hiện trong một cơ ngơi đầy ánh sáng. Như thể đó là một
căn hộ dành cho búp bê, sạch sẽ tươm tất, mọi thứ đều bằng màu hồng,
những dải băng xoăn được thắt khắp nơi.
“Chắc là anh đã từng muốn em sống trong ghét bẩn chứ gì?”, lần đầu
tiên Joséphine hỏi tôi trong khi mà tôi há hốc miệng nhìn ngó nhìn nghiêng.
Trên cái bàn có trải chiếc khăn rất đẹp có một bó hoa irit ; trên tường có
treo những bức tranh vẽ những vị thánh và thiên thần bé bỏng, những bức
tranh này được đóng khung sơn rất đẹp, tựa những bức mà các cha xứ
thường đưa cho những người chịu lễ ban thánh thể và cho các lễ sinh.
“Em tin à?” Tôi hất hàm chỉ những bức vẽ xinh xắn và hỏi Joséphine. Cô
nhún vai, không hẳn là để châm chọc mà là để nói với tôi một điều hiển
nhiên, một điều không cần phải bàn cãi.
“Giá như em có những cái nồi bằng đồng đẹp đẽ, em sẽ treo lên, như thế
sẽ tạo nên cảm giác rằng thế giới không đến nỗi xấu xí, đôi khi vẫn có
những ánh vàng nho nhỏ và, suy cho cùng, em nghĩ đời người không khác
gì sự kiếm tìm những những mảnh vụn bằng vàng này”.
Tôi cảm thấy bàn tay cô đặt lên vai tôi, rồi tay kia nữa, và cuối cùng là
hơi ấm của một chiếc khăn len.