Matziev cũng thế. Tất nhiên còn có cả gia đình, có Bourrache và người vợ
đang cần được an ủi, có hai người chị của con bé, Aline và Rose. Hai đứa
chị này hình như không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Có mặt hôm đó còn có
bà cô Adélaide Siffert. Bà cô này run run nói đi nói lại với mọi người ở
nghĩa địa, “Tôi mà biết được thì... Tôi mà biết được thì...”. Vấn đề là không
ai biết trước mọi thứ.
Chúng tôi không được mấy người ở nhà thờ. Tôi nói chúng tôi là bởi vì
dường như chúng tôi còn ở bên nhau, cho dù tôi đứng còn Clémence thì
nằm trong quan tài bằng gỗ sồi có nhiều nến thờ vây quanh, cho dù tôi
không thấy nàng nữa, không cảm thấy nàng nữa. Cha Lurant làm lễ. Ông ấy
nói những câu đơn giản và chính xác. Tôi gặp lại người đã cùng ăn, cùng
ngủ với tôi trong bộ áo lễ, cùng ăn cùng ngủ với tôi khi Clémence đang
trong cơn hấp hối.
Tôi giận cha tôi từ lâu rồi, còn Clémence thì không còn anh em họ hàng
gì nữa. Như thế lại càng tốt. Tôi không chịu nổi cảnh được người này người
kia dìu dắt, ôm hôn, chia buồn. Tôi muốn ở một mình càng nhanh càng tốt
vì từ giờ trở đi, tôi sẽ đơn độc suốt đời.
Tại nghĩa trang, chúng tôi còn lại sáu người: cha xứ, Ostrane kẻ đào
huyệt, Clémentine Hussard, Léocadie Renaut, Marguerite Bonsergent - ba
bà già chuyên làm lễ chôn cất cho tất cả mọi đám- và tôi. Cha Lurant đọc
câu kinh cuối cùng. Mọi người cúi đầu lắng nghe. Ostrane để đôi bàn tay
chai sạn lên cán xẻng. Còn tôi thì nhìn cảnh vật xung quanh, nhìn những
cánh đồng trải dài ra tận sông Guerlante, nhìn khu đồi có cây cối trơ trụi và
những đường mòn nâu bẩn, nhìn bầu trời đầy mây. Ba bà già ném hoa tang
lên quan tài. Cha xứ làm dấu thánh. Ostrane bắt đầu cho đất xuống. Tôi về
trước. Tôi không muốn nhìn.
Đêm hôm sau tôi đã mơ. Tôi thấy Clémence nằm dưới đất và nàng khóc.
Đủ loại súc vật tiến về phía nàng với những cái đầu gớm ghiếc, nanh vuốt