II
Ngày thứ hai đầu tiên trong tháng mười hai. Ở vùng quê tôi. Năm 1917.
Thời tiết như ở Sibérie. Đất nhóp nhép dưới gót dày và âm thanh đó vang
tận gáy. Tôi còn nhớ cái chăn rộng mà người ta đắp lên thi thể của cô bé và
bị thấm nước ngay. Tôi còn nhớ hai viên cảnh sát, Berfuche, một người lùn,
mập có đôi tai của heo rừng, lông lá mọc đầy và Grosspeil, một người quê
ở Alsace có gia đình trốn ra nước ngoài bốn mươi năm trước đó. Hai người
này canh chừng thi thể cô bé bên bờ kênh. Lùi xa hơn một tý có đứa con
trai nhà Bréchut, một người khoẻ mạnh bụng to, tóc dựng đứng như rễ tre.
Anh ta đang mân mê chiếc áo gilet của mình, không biết nên làm gì, đi hay
ở. Chính anh ta là người đă phát hiện ra cô bé dầm mình nước trên đường
đi làm. Hồi ấy anh làm bàn giấy ở văn phòng trưởng bến cảng. Bây giờ anh
ta vẫn đang làm chỗ ấy, chỉ có điều anh ta đã già thêm hai mươi tuổi và trán
trơn bóng như băng.
Một cơ thể mười tuổi thì không to là mấy, hơn nữa lại sũng nước mùa
đông. Berfuche kéo một góc chăn rồi thổi vào hai bàn tay để sưởi ấm.
Gương mặt của Hoa Bìm Bìm lộ ra. Một vài con quạ lặng lẽ bay qua.
Cô bé giống một nàng công chúa trong truyện kể, môi nhợt nhạt xanh và
mi mắt trắng bệch. Tóc nó lẫn vào những đám cỏ đã úa đỏ vì những buổi
sáng giá băng. Đôi bàn tay của cô bé khép lại trong khoảng không. Ngày
hôm đó trời lạnh đến nỗi mà râu ria mọi người bị tuyết phủ lên mỗi khi mà
họ thở vào không khí, phì phò như những con bò mộng. Người ta giậm
chân để cho máu lưu thông sưởi ấm hai bàn chân. Trên trời cao, những con
ngỗng cục mịch vẽ lên những vòng tròn. Dường như chúng đã lạc đường
thì phải. Mặt trời co mình trong chiếc áo choàng làm bằng sương mù đang