Ngôi nhà của cha tôi là một bãi đầm của lợn lòi. Tôi đã cố tìm lại bóng
dáng căn nhà xưa đã mất, những kỷ niệm, những hình ảnh của ngày xưa.
Nhưng không gì còn động đậy nữa. Ghét rác và bụi bặm đã trùm lên mọi
thứ một chiếc áo tả tơi. Nó như một chiếc quan tài lớn của một xác người
chưa chết hẳn, như thể muốn mang đi tất cả nhưng cuối cùng lại không đủ
can đảm. Tôi nhớ lại những gì mà thầy giáo đã kể cho chúng tôi về Ai Cập,
về các ông vua Pharaông, về những ngôi mộ đầy ắp của cải phù du. Ngôi
nhà cha tôi cũng gần gần như thế, chỉ có điều ông chưa bao giờ là vua
Pharaông cả, và thay vì vàng bạc, đá quý chỉ có bát đũa bẩn thỉu, những
chai rượu không chất bừa bãi từng đống lớn trong tất cả các phòng.
Tôi chưa bao giờ yêu quý cha tôi, và tôi cũng không biết vì sao. Tôi cũng
chưa bao giờ ghét ông. Chúng tôi chưa bao giờ nói chuyện với nhau, thế
thôi. Giữa hai chúng tôi khi nào cũng là cái chết của mẹ tôi, như một cái
gai, một khoảng lặng dày đặc mà không ai trong chúng tôi dám xuyên
thủng để chìa tay cho nhau.
Nơi trước đây là phòng ngủ của tôi nay thành một trại lính được xây
thành đắp luỹ, một cái lô cốt tồi tàn được xếp lên từ những tờ báo để cạnh
nhau và vươn tới trần nhà. Cửa sổ chỉ còn là một tấm liếp mỏng mảnh, tang
thương, từ đó cha tôi có thể trông thấy nơi ở tan hoang của Fantin
Marcoire. Gần lối vào, dưới đất là hai cái ná cao su được làm từ gỗ phỉ và
lốp xăm, giống như những cái ná mà bọn trẻ con hay làm để bắn quạ hoặc
nã vào mông người trông vườn. Bên cạnh hai cái ná là những cái đinh chữ
U, là những cái đinh vít méo mó, là một mẩu xúc xích mới cắn một miếng,
một chai rượu vang mới uống một nửa và một cái li bẩn thỉu.
Nơi đó chính là nơi cha tôi đã tiếp tục cuộc chiến của mình, lấy sắt vụn
bắn xối xả vào kẻ thâm thù của mình khi người này trong nhà đi ra. Tôi đã
tưởng tượng cha tôi hàng giờ cứ nhâm nhi đồ ăn và uống rượu, nghe ngóng
những âm thanh của đường phố, chộp lại vũ khí như nhìn nhầm giờ. Rồi
bỗng nhiên cầm lấy cái ná, nạp đạn vào, bắn vào người kia, chờ cho hắn ta