giữ tôi lại. Đức Giám mục nhân hậu, hôm ấy đến thăm Má, cũng
chẳng ngồi không: ông dẫn má ra khu vườn, tại đó ông cầu nguyện
cùng với bà và tất cả những ai đang ở đấy; thành thử lát sau khi tôi đến
đó, tôi thấy toàn thể mọi người đang quỳ, và tôi cũng quỳ như những
người khác. Trong khi đức Giám mục cầu nguyện, thì gió đổi chiều,
nhưng hết sức đột ngột và hết sức đúng lúc, thành thử những ngọn lửa
bao trùm ngôi nhà và đã tạt vào qua các cửa sổ, được gió lùa sang phía
bên kia sân, và ngôi nhà không bị hư hại gì hết. Hai năm sau, giám
mục De Bernex đã qua đời, các tu sĩ dòng thánh Antoine, cùng giáo
đoàn với ông, bắt đầu thu thập các văn kiện có thể phục vụ việc phong
thánh cho ông. Được cha Boudet yêu cầu, tôi thêm vào các văn kiện
đó một bản xác nhận sự kiện mà tôi vừa thuật lại, điều ấy thì tôi làm
đúng; nhưng điều tôi làm dở, đó là coi sự kiện ấy như một phép mầu.
Tôi đã nhìn thấy đức Giám mục cầu nguyện, và trong khi ông cầu
nguyện tôi đã thấy gió đổi chiều, và thậm chí rất đúng lúc; đó là những
gì tôi có thể nói và chứng thực; nhưng một trong hai điều là nguyên
nhân của điều kia, đó là những gì tôi không nên xác nhận, bởi vì tôi
không thể biết được. Tuy nhiên, theo như tôi có thể nhớ lại các ý
tưởng của mình, khi ấy là người Thiên Chúa giáo một cách chân
thành, thì tôi thực tâm. Niềm yêu thích cái kỳ diệu, hết sức tự nhiên
đối với lòng người, sự tôn sùng vị chủ giáo đức độ, niềm kiêu hãnh
ngầm vì có thể chính mình đã góp phần vào phép mầu, giúp sức làm
tôi xiêu lòng; và điều chắc chắn là nếu như phép mầu ấy là kết quả của
những lời cầu nguyện nồng nhiệt nhất, thì tôi rất có thể quy công cho
phần của mình.
Hơn ba mươi năm sau, khi tôi đã công bố Những bức thư từ núi,
ông Fréron bới ra được bản chứng thực ấy chẳng hiểu bằng cách nào,
và sử dụng nó trong các tờ báo của ông. Phải thú nhận rằng việc phát
hiện thật khéo, và bản thân tôi cũng thấy sự đúng lúc rất lý thú