một diễn từ sẽ đọc trước Hội đồng giáo khu, để không thừa nhận nó và
miễn cho mình phải trả lời; việc này rất dễ. Tôi viết bài diễn từ ấy, và
tôi bắt đầu học thuộc lòng một cách hăng hái vô song. Thérèse chế
nhạo tôi, khi nghe tôi lầm bầm và lặp lại không ngừng vẫn những câu
văn ấy, để cố nhét chúng vào óc. Tôi hy vọng cuối cùng sẽ nắm được
bài diễn văn; tôi biết rằng vị Quý tộc, với tư cách quan chức của quốc
vương, sẽ tham dự Hội đồng giáo khu, rằng, bất kể những thủ đoạn và
những chai rượu của Montmollin, phần lớn các trưởng lão có ý tốt với
tôi; để ủng hộ tôi, có lẽ phải, có sự thật, công lý, sự bảo hộ của Đức
Vua, uy quyền của Tham sự viện, nguyện vọng của mọi người yêu
nước chân chính quan tâm đến việc lập ra sự tra xét này; mọi điều đều
góp phần khích lệ tôi.
Hôm trước ngày đã định, tôi thuộc lòng bài diễn từ; tôi đọc nó
không sai. Suốt đêm tôi nhắc lại nó trong óc: sáng ra tôi không thuộc
nữa; cứ mỗi từ lại ngắc ngứ, tôi ngỡ mình đã ở giữa cử tọa danh tiếng
đó rồi, tôi lúng túng, tôi lắp bắp, đầu óc tôi rối loạn; tóm lại, gần như
vào lúc ra đi, tôi hoàn toàn mất can đảm; tôi ở lại nhà và quyết định
viết thư cho Hội đồng, vội vã nói lên các lý lẽ, và viện cớ bệnh tật, mà
quả thực, trong tình trạng của tôi khi ấy, bệnh tật khó để cho tôi chịu
đựng hết buổi họp.
Mục sư, bối rối vì bức thư của tôi, hoãn vụ việc sang một phiên
họp khác. Trong thời gian giữa hai cuộc họp, tự ông ta và các tay chân
của ông ta có hàng ngàn động thái nhằm làm xiêu lòng số trưởng lão
theo sự mách bảo của lương tâm họ hơn là của ông ta, không tán thành
ý muốn của mục sư đoàn và của ông ta. Dù những lý lẽ lấy từ hầm
rượu nhà ông ta có sức mạnh đến đâu với những loại người như thế,
ông ta cũng chỉ thu phục được hai ba kẻ đã tận tụy với mình rồi, mà
mọi người gọi là những kẻ nhắm mắt theo chân ông ta. Vị quan chức
của quốc vương và đại tá Pury, người xử sự rất nhiệt tình trong vụ này,
khiến được những trưởng lão khác giữ bổn phận, và khi Montmollin
muốn tiến hành việc khai trừ, thì Hội đồng quản trị giáo khu, với đa số