thản nhiên, vừa thương hại nhìn bác bằng đôi mắt già lão, và ngoài ra bác
chỉ thấy rõ có bộ mặt của con gái bác mà thôi.
VIII
Rồi lại một tháng nữa trôi qua, và thời hạn phải nộp các khoản tô tức
đắng cay và ngọt bùi ấy cho Chúa đã tới gần.
Mùa thu đã đến sớm. Khổ sở vì rét mướt, vì quần áo cũ rách, vì những
chỗ da mục và những lở loét khác ở khuỷu tay, bác Averki đành chỉ lắc đầu
khi nhận thức về cái chết:
- Sao nó ương bướng thế! Cầu mãi mà chẳng đến cho.
Bác vẫn chỉ nhìn thấy thế giới qua khung cổng, chỉ thấy được một phần
nhỏ của bức tranh lớn lao. Đằng sau những cây liễu nhỏ trần trụi, những
đám mây mỗi lúc một trắng bệch ra, mỗi lúc một lạnh thêm, đang bay theo
đường chân trời. Những ngọn cỏ đang ngắc ngoải, khô héo và thối ruỗng ra.
Sân phơi lúa trống trải và trơ trụi. Qua những đám liễu nhỏ, đã trông thấy
được chiếc cối xay gió giữa nơi đồng ruộng quạnh hiu. Chốc chốc mưa lại
chuyển thành tuyết rơi, gió rít lên dữ dội và lạnh lẽo qua những lỗ thủng
trong lán. Bác Averki suy nghĩ ngẩn ngơ:
“Mùa thu đang phi trên mình ngựa khoang...”
Còn trong những đêm tăm tối, giá lạnh và ẩm ướt, một khi khung cổng
đã đứng trước mặt bác như một bóng ma mờ mịt, bất động và nặng như chì
nhìn vào bác, thì bác đâm ra khủng khiếp. Bác chẳng dám quyết định trở về
nhà gỗ, vì biết rằng mình sẽ tắt thở ngay trong đêm đầu tiên và sẽ chết một
cách đau đớn ê chề.
Có lần bác đã thấy một giấc mơ như sau. Trời rất lạnh, đằng xa những
đám mây thấp phủ lên cây cối, phủ lên dãy rừng đỏ vàng phía sau chúng.
Người đang cưỡi ngựa đi trên con đường bùn lầy chính là bác - một con
người cổ xưa, tóc dài, chân dài, khoác một chiếc áo lông dài lụng thụng trên
tấm thân dài ngoằng và khô đét - và bác đang lấy bàn chân đi chiếc giày bện