áo lông ngắn đã sờn và trong những tấm chăn ngựa loang lổ đắp thêm cho
ấm, và mỗi lúc bác lại kéo sụp cái mũ sâu lòng xuống vầng trán láng bóng
của mình. Nét mặt bác mang vẻ chờ đợi, nhưng cặp mắt to, đã thâm sì của
bác không biểu thị một điều gì. Lảo đảo và loạng choạng do yếu nhược, bác
đã tự mình, bằng sức lực của chính mình, chuyển từ chiếc xe ngựa sang xe
trượt tuyết và với sự đắc ý của trẻ con, bác nghĩ bụng: họ đến để thắng mình
sang cỗ xe khác đây, còn mình thì đã sẵn sàng cả rồi, chỉ việc nắm lấy càng
xe mà kéo... Bỗng tiếng cô con gái lanh lảnh vang lên:
- Bố! Bố còn sống đấy chứ?
Thấy mặt bác, cô con gái đột nhiên khóc nức lên. Cô cảm thấy lớn lao và
cổ kính thay con người đã chết nhưng vẫn còn sinh khí này, với dúm tóc lơ
thơ còn sót lại, xoã dài xuống tận vai, đội một chiếc mũ do cũ bẹp đã biến
thành một thứ mũ có chỏm cao như kiểu mũ của thầy tu chính giáo, và mặc
một chiếc áo ngoài dài lụng thụng màu lúa mạch đen đã khô, trùm lên trên
chiếc áo lông ngắn. Bác thều thào chào hỏi cô. Đoạn cô đưa mắt nhìn xuôi,
và hầu như không cần tới sự giúp sức của cô bạn, một mình lôi chiếc xe
trượt tuyết về ngôi nhà gỗ. Và trên lớp tuyết phủ trắng xoá người ta thấy từ
lán chứa lúa tới ngôi nhà gỗ kéo dài hai vệt đen đủi, - dấu vết tang tóc của
đôi càng trượt tuyết đã đứng không trong suốt mùa hè.
IX
Ngoài sân hoàng hôn đã biếc xám, song vẫn còn sáng sủa, tuyết vẫn
trắng ngần. Nhưng trong căn nhà gỗ thì đã nhọ mặt người.
Cha đạo bước vào nhà trong bóng tối chạng vạng, người phủ đầy tuyết.
Qua ngưỡng cửa phải cúi mình dưới khung cửa thấp.
- Ông ấy nằm chỗ nào? - ông ta hùng dũng kêu lên, và tiếng ông ta vang
lên như tiếng Thần Chết.
Bà lão đang ngồi trên ghế dài bèn đứng dậy, hơi có vẻ sợ. (Cô con gái
tưởng là phút lâm chung của bố chưa đến gần như vậy, đã đi dự lễ đính
hôn). Chống hai tay run run, chính bản thân bác Averki cũng nhỏm dậy và
lặng người chờ đợi, hệt như vừa trong quan tài chui ra. Trong bóng tối, bộ