đang xấu đi. Trời tối mịt, hệt như lúc chiều tà của ngày thường; một cơn
mưa nhỏ rơi lộp độp trên một tờ báo lăn lóc ngoài bậc thềm của ngôi nhà
chủ quý tộc; những con gà mái tây, đuôi ướt lướt thướt, đậu lên bờ giậu đổ
nát, còn những chú gà con, tuy bị những con gà mái tây bực tức mổ tới tấp,
vẫn cứ leo lên, chui vào nấp dưới cánh chúng... Những món ăn ngọt! Bác
Averki hiểu giá trị của chúng. Những nỗi gian lao cuối cùng trước khi chết
đã đến với bác, nhưng dù sao bác cũng vẫn cố không để mất những món ăn
ngọt ấy khi bác lê bước tới căn nhà gỗ này.
II
Bác quay trở lại, người tái đi, chân run lên, và bác xin cô làm bếp cho
bác được nằm lên bệ lò.
Cô ta dửng dưng hỏi:
- Lại ốm rồi hả?
- Tôi đã phục vụ ba chục năm trời, - cũng hòa theo giọng ấy, bác vừa đáp
lại, vừa leo lên tấm phản, đặt đôi giày bện vào chiếc bếp than nhỏ, rồi len
vào khoảng trống chật hẹp, nóng ấm giữa bếp lò với trần nhà, - tôi đã phục
vụ ba chục năm trời với lương tâm trong sạch, nhưng đến nay thì hết rồi,
yếu rồi... Chẳng đóng móng sắt nổi cho một con rận nữa, -bác nói đùa. -
Mòn gỉ rồi, bắt đầu thở chẳng ra hơi, - bác nói với giọng càng chắc chắn
hơn, thậm chí có vẻ hài lòng nữa, rồi nằm xuống.
Và vừa đặt mình xuống xong, sau khi đã gối đầu để nguyên cả mũ cho
êm lên một bó dây bện đã cũ nát, bác lập tức lim dim ngủ và nghe thấy cả
hơi thở sâu và đứt đoạn đều đều của mình, cảm thấy hơi thở ấy nong nóng ở
trên môi. Bác đã đinh ninh rằng mình sẽ không ốm liệt giường liệt chiếu,
rằng mình là một con “gà trống nuôi rẽ”. Từ lâu bác đã cố gắng để lấn lướt
tật bệnh. Những con chó ốm thường bỏ nhà, ra bờ ruộng, bìa rừng, tìm một
loại cỏ mảnh mai nào đó mà chỉ mình chúng biết, để mà ăn và bí mật tự tìm
cách chữa chạy cho mình. Tách ra khỏi đám người ăn kẻ ở trong nhà, bác
Averki cũng tìm tòi, cũng bí mật mua nào rượu vodka, nào nước xôđa... Giờ
đây bác đã không còn hơi sức đâu để có gắng lướt qua bệnh tật được nữa.