kiếm cách đi thăm thành phố. Khi trở về, anh có những ảnh và những hộp
diêm đầy túi. Anh thích thu thập những thứ ấy.
Đến Đa–ca, biển nổi sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ. Cũng không thể
thả ca–nô xuống vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt
những người da đen Pháp phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn người da
đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng biển cuốn đi.
Cảnh tượng ấy mọi người coi là thường. Nhưng điều đó làm cho anh Ba
hết sức cảm động, anh khóc. Ngạc nhiên, tôi hỏi tại sao? Anh Ba buồn rầu
trả lời tôi:
“Những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp
thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Ở đâu chúng nó cũng thế. Ở ta, tôi cũng
thấy chuyện như thế xảy ra ở Phan Rang. Bọn Pháp cười sặc sụa trong khi
đồng bào ta chết đuối vì chúng nó. Đối với bọn thực dân, tính mạng của
người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu.”
Chiếc tàu của chúng tôi chở rượu ngon của Boóc–đô và An–giê–ri cho
những thuộc địa khác. Tất cả mọi người trên tàu dùng rượu đó. Vì rượu rất
nhiều. Tôi đã trông thấy nhiều thủy thủ say rượu suốt chuyến tàu. Chỉ cần
dùi một lỗ nhỏ vào thùng rượu, ấn một ống cao su nhỏ vào đấy, hút thật
mạnh để đầu ống kia vào một cái chai. Và như thế tha hồ mà uống. Nhưng
anh Ba không bao giờ uống rượu và khuyên tôi không nên làm như thế.
Anh Ba rất tốt với mọi người và không bao giờ cãi cọ với ai. Nhưng anh
Ba hơi khác thường. Mỗi ngày, anh dậy thật sớm để xem mặt trời mọc. Và
trong những đêm trăng, anh hầu như không ngủ, anh đi đi lại lại trên tàu,
ngắm trời ngắm bể. Chúng tôi đậu lại ở Tê–nê–rít–pho vào lúc hoàng hôn,
biển lặng sóng, hòn đảo giống như một cái chụp đèn khổng lồ để trên mặt
biển, phía trên lóng lánh, phía dưới xanh xanh. Chỉ có thế thôi, mà anh Ba
ngây người. Anh nhắc đi nhắc lại: "Bốn, anh nhìn kìa! Đẹp quá! Hùng vĩ
quá!"
Đến lúc trở về Ha–vơ–rơ, nhớ lời khuyên của anh Ba, tôi không đến
thăm cô gái nhảy nữa. Tôi còn đi một vài chuyến, dành được ít tiền thì tôi