Đây là một thành phố theo kiểu Mông Cổ, hoàn toàn khác hẳn những
thành phố ở châu Âu.
Kờ-rem–lanh ở trên một ngọn đồi, bên bờ sông Matxcơva, giữa thành
phố Mạc–tư–khoa. Chung quanh có thành bao bọc, ở giữa những tháp
chuông lóng lánh ánh mặt trời và điện Kờ-rem–lanh cửa mạ vàng, khảm
ngọc. Trước kia vua chúa ở đây, Bây giờ những lãnh tụ nước Nga chỉ ở
trong những nhà tầm thường. Còn Kờ-rem–lanh để làm phòng hội nghị.
Muốn đến thăm Kờ-rem–lanh, phải có giấy phép đặc biệt.
Mộ Lê–nin dựa vào thành Kờ-rem–lanh, quay mặt ra phía Hồng trường
vĩ đại. Mộ xây bằng cẩm thạch đen. Lê–nin nằm trong một quan tài bằng
pha–lê như một người đang ngủ; suốt ngày, từng đoàn nhân dân đến viếng
mộ của vị lãnh tụ kính mến. Và khi bước ra, người nào cũng rưng rưng
nước mắt.
Có những kẻ cho nước Nga là một địa ngục. Có những người thì bảo
nước Nga là một thiên đường. Đối với ông Nguyễn, nước Nga nhất định
không phải là một địa ngục, nhưng lúc bấy giờ cũng chưa phải là một thiên
đường mà là một nước đang xây dựng có nhiều ưu điểm, nhưng tất nhiên
chưa kịp sửa chữa hết những khuyết điểm. Đây đó, người ta còn thấy
những vết thương do chiến tranh để lại như những cảnh trẻ mồ côi, thiếu
nhà ở, thiếu lương thực, v.v. Song những vết thương đang được hàn gắn
dần dần. Khắp nơi, người ta phấn khởi, hy sinh, hăng hái làm việc.
Vừa xem xét vừa nghiên cứu nước Nga, ông Nguyễn không quên đây là
một nước đã trải bốn năm chiến tranh thế giới và một năm nội chiến, những
cuộc chiến tranh đã làm tổn thương đến tận cơ sở. Ông Nguyễn cũng không
quên so sánh nước Nga mà cuộc cách mạng đang tiến tới với nước Việt
Nam bị nô lệ đã mấy mươi năm.
Ông chú ý nhất đến chế độ xã hội của nước Nga. Ở đây mọi người ra sức
học tập, nghiên cứu để tiến bộ. Chính phủ thì giúp đỡ khuyến khích nhân
dân học tập. Ở đâu cũng thấy trường học. Các nhà máy đều có lớp học, ở
đây con em thợ thuyền có thể học nghề, thợ không lành nghề có thể học để