đã bị hôn mê, và bác sĩ bảo ông có thể ra đi bất cứ lúc nào. Nhưng ông đã
kéo được thêm một buổi chiều khó khăn và một đêm tối mịt.
Cuối cùng, vào ngày bốn tháng mười một, khi tất cả những người thân
yêu của thầy rời phòng trong chốc lát, để lấy một cốc cà phê - lần đầu tiên
không có mặt ai trong phòng từ khi ông bị hôn mê - thầy Morrie đã ngừng
thở.
Và rồi ông đã ra đi.
Tôi tin tưởng rằng ông đã cố ý ra đi như thế. Tôi tin rằng ông không
muốn có những giây phút rùng rợn, không ai phải chứng kiến lúc ông thở
hơi cuối cùng, và vì thế sẽ bị ám ảnh mãi, như ông đã từng bị ám ảnh bởi
bức điện tín báo tin cái chết của mẹ ông, và xác của cha ông trong nhà xác
tỉnh thành.
Tôi tin rằng ông biết ông đang nằm trong giường mình, có những
quyển sách, bài viết, giấy tờ và cây hoa dâm bụt vây quanh ông. Ông muốn
ra đi trong thanh tịnh và ông đã ra đi như thế.
Đám tang được cử hành vào một buổi sáng gió lạnh. Bãi cỏ sũng nước,
bầu trời một màu trắng sữa. Chúng tôi đứng chung quanh một lỗ hỏng trên
mặt đất, không mấy xa một cái ao, bởi chúng tôi có thể nghe tiếng nước vỗ
vào bờ, và tiếng các chú vịt rẩy lông.
Dù có đến hàng trăm người muốn tham dự đám tang, bà Charlotte đã
giữ cuộc tiễn đưa trong vòng thân mật, chỉ có bạn bè và bà con thân thuộc
mà thôi. Mục sư Axelrod đọc một vài bài thơ. Em của thầy Morrie, ông
David, chân vẫn còn đi kh ập khểnh vì bệnh polio ngày còn bé - theo truyền
thống đã xúc đất vào ngôi huyệt.
Một lúc nào đó, trong khi tro của thầy Morrie được đặt vào lòng đất,
tôi đưa mắt nhìn chung quanh nghĩa trang. Thầy Morrie nói đúng. Đấy là
một nơi thật đẹp, với cây, cỏ viền bởi một ngọn đồi.
"Anh nói, và thầy sẽ lắng nghe". Ông đã nói.