được phép cho thêm chữ P ở trước chữ R của mình và mang tên mới là
Prenard, khiến cho cái tên sau này cũng tiêu biểu cho ông chẳng kém cái tên
trước.
Theo người khu phố ấy truyền lại thì ông biện lý Gorbeau là chủ
cái nhà mang số 50-52 ở đại lộ Nhà Thương này. Chính ông ấy cũng là
người đã trổ cái cửa đồ sộ kia. Do đó mà cái nhà hát bấy giờ có cái tên nhà
ông Gorbeau.
Ngay trước cửa số nhà 50-52, giữa những cây cối trên đại lộ có một cây
du đã chết đến ba phần tư. Hơi chếch cửa nhà này một chút là phố cửa ô
Gobelins, lúc bấy giờ chưa có nhà ở, chưa có đá lát, cây trồng không hàng
lối, xanh tươi hay bẩn lấm tùy mùa, phố này dẫn thẳng đến hàng thành bao
quanh Paris; một xưởng máy gần đó bốc lên qua mái một mùi diêm sinh.
Cửa ô ngay ở gần đấy. Năm 1854 tường thành vẫn còn. Chính cái cửa ô
này gợi ra trong đầu óc những hình ảnh thê thảm. Nó là con đường dẫn đến
Bicêtre. Chính qua cửa ô ấy, dưới thời Đế Chế và thời Phục Hưng, những tù
tử hình được đưa về Paris ngày họ bị hành hình. Chính ở đây vào khoảng
năm 1829 đã xảy ra một vụ ám sát mệnh danh là “Vụ ám sát cửa ô
Fontainebleau” mà công lý đã không tìm ra được những thủ phạm. Vấn đề bi
thảm không được đưa ra ánh sáng, bí mật ghê sợ không được khám phá.
Tiến thêm vài bước nữa bạn sẽ tới cái phố tai họa Croulebarbe nơi mà
Ulbach đã đâm chết cô gái chăn dê ở Ivry, giữa tiếng sấm rền như trong một
vở bi kịch. Đi vài bước nữa bạn sẽ tới những cây du, ghê tởm, bị chặt ngọn
của cửa ô Saint Jacques. Đây là mưu mẹo của các nhà ái quần, muốn che
giấu cái máy chém ở nơi pháp trường ti tiện và nhục nhã của một xã hội con
buôn và thị dân. Cái xã hội đó đã lùi bước trước cái án tử hình, không dám
hủy bỏ nó một cách đại lượng, cũng không dám duy trì nó một cách oai
nghiêm.
Ba mươi bảy năm trước nếu không kể đến cái quảng trường của cửa ô
Saint Jacques lúc nào cũng ghê rợn này mà số phận đã định thì cái nơi vắng
vẻ, thê thảm nhất của cái vùng thê thảm này, đúng là cái nơi mà bây giờ
cũng chẳng vui hơn tí nào, cái nơi ta thấy ngôi nhà nát 50-52. Những ngôi
nhà thị dân mới bắt đầu xuất hiện ở đây khoảng hai mươi lăm năm sau đó.
Cái khu này vẫn u ám. Qua những ý nghĩ chết chóc mà cái khu này khêu gợi,
người ta cảm thấy mình đứng giữa cái vòm mái của Nhà Thương