cạnh. Phần đông những người bị thương đều còn sức và đều muốn tiếp tục
chiến đấu. Trên một ổ rơm rải đệm trong nhà bếp biến thành phòng quân y,
có năm người bị thương nặng, trong số có hai người cảnh vệ thành phố. Hai
tên này được băng bó trước tiên.
Trong gian phòng thấp chỉ còn thi hài cụ Mabeuf phủ tấm vải liệm đen và
Javert trói vào cây cột. Enjolras nói:
— Đây là phòng của người chết.
Bên trong gian phòng, ở tận đằng sau, dưới ánh sáng lờ mờ của cây nến,
cái bàn tử thi đặt sau cây cột thành một thanh ngang. Javert đứng và ông cụ
Mabeuf nằm, cả hai hợp lại thành một cái gì đó phảng phất như một cây
thánh giá to tướng.
Cái càng xe chở khách, mặc dù bị bắn gãy cụt, vẫn còn đứng được để có
thể treo cờ. Enjolras có đức tính của người chỉ huy, hễ nói là làm. Anh ta
đem mắc vào cái cán cờ ấy cái áo thủng dính máu của cụ già đã hy sinh.
Không còn nói chuyện cơm nước gì được nữa. Bánh cũng không mà thịt
cũng không. Năm mươi chiến sĩ, trong thời gian gần một ngày một đêm có
mặt ở đây đã không mấy chốc mà vét cạn tủ thực phẩm ít ỏi của quán rượu.
Đến một lúc nhất định, bất kỳ chiến lũy nào còn chống chọi được đều lâm
vào cảnh bè trôi mặt biển, không cách nào tránh khỏi. Đành phải bấm bụng
chịu đói vậy. Bấy giờ đang vào quãng một, hai giờ sáng ngày mồng sáu
tháng sáu oanh liệt. Chính hôm ấy, ở chiến lũy Saint Merry, khi nghĩa quân
bao quanh Jeanne để hỏi bánh mì thì Jeanne đã trả lời cho đám chiến sĩ đang
kêu đói: “Để làm gì? Bây giờ là ba giờ. Bốn giờ chúng ta chết rồi mà!”
Không có cái ăn nên Enjolras cấm uống. Anh cấm hẳn rượu vang, còn rượu
mạnh thì phát khẩu phần. Người ta tìm được trong hầm rượu mười lăm chai
đầy, gắn xi kín mít. Enjolras và Combeferre xem xét rất kỹ. Vừa leo khỏi
hầm, Combeferre vừa nói:
— Đây là cái vốn xưa nhất của bác Hucheloup, hồi đầu bác ấy bán tạp
hóa mà.
Bossuet góp thêm:
— Chắc phải là thứ rượu vang chính cống. May mà Grantaire đang ngủ.
Hắn mà thức thì không dễ gì cứu thoát mấy chai này.
Mặc những tiếng xì xào Enjolras vẫn cứ ra lệnh không được đụng đến