LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Victor Hugo là nhà văn lãng mạn lớn nhất của nước Pháp, thế kỷ XIX.
Cuộc đời chiến đấu không ngừng của ông, những tác phẩm văn chương của
ông phản ánh trung thành những biến cố lịch sử lớn lao, những cuộc Cách
Mạng của nhân dân Pháp suốt thế kỷ XIX. Tác phẩm của ông tiêu biểu cho ý
chí tự do, lòng tha thiết yêu hòa bình, lòng tin tưởng cao cả vào con người
lao động. Bởi vậy, ngày nay ở mọi nước, người ta đều công nhận Victor
Hugo là một nhà văn tiến bộ không những của nước Pháp mà còn là của toàn
thể nhân loại.
Năm 1952, nhân dân khắp thế giới đã tổ chức long trọng lễ kỷ niệm ngày
sinh nhật lần thứ 150 của Hugo tại Vienne, thủ đô nước Áo. Tác phẩm của
ông đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Victor Marie Hugo sinh ngày 26 tháng 2 năm 1802 ở Besançon, một tỉnh
nhỏ ở miền Đông nước Pháp. Bố ông là một sĩ quan cao cấp thời kỳ
Napoléon Đệ Nhất. Mẹ ông thuộc một gia đình theo Chủ Nghĩa Quân Chủ
và ngoan đạo. Lúc còn nhỏ, Hugo sống với mẹ, chịu ảnh hưởng tư tưởng của
mẹ. Nhưng từ thời thơ ấu, ông đã ở Paris “quê hương” của ông, quê hương
của Cách Mạng Pháp, nên ông sớm hấp thụ những tư tưởng Cách Mạng, tinh
thần dân chủ. Những năm còn nhỏ tuổi, Hugo theo bố mẹ sang Ý rồi sang
Tây Ban Nha. Cảnh vật chói lọi ở những nước này sẽ để lại trong thơ văn
của ông những hình ảnh tươi sáng, những kỷ niệm sâu sắc. Từ năm lên
mười, Hugo ở hẳn Paris, học tại trường trung học Louis Le Grand. Năm
mười bốn tuổi, Hugo bắt đầu làm nhiều thơ, năm mười lăm tuối được giải
thưởng thơ của Viện Hàn Lâm Pháp. Năm mười bảy tuổi, ông bỏ học để
chuyên sáng tác.
Những tác phẩm đầu tiên của ông gợi lại thời kỳ Trung Cổ phong kiến,
biểu hiện tư tưởng Quân Chủ rõ nét, những đồng thời cũng đã có mầm mống
của tư tưởng nhân đạo, chống đối lại chế độ nô lệ lúc bấy giờ.
Từ 1820 đến 1830, Hugo liên lạc với nhóm nhà văn lãng mạn và trở nên
lãnh tụ của nhóm này. Ông mang hết thiên tài lỗi lạc và trái tim nồng nhiệt
đấu tranh cho một nền văn học mới, tự do, chống đối lại thứ nghệ thuật gò
bó, giả tạo của Chủ Nghĩa Cổ Điển lúc ấy đã lỗi thời. Năm 1827, ông viết vở