một xó rừng, trong bụi rậm, một cái xẻng và một cái cuốc, hình như có ai
giấu ở đấy. Song, hắn nghĩ là có lẽ cái xẻng, cái cuốc ấy là của lão gánh
nước thuê Six Fours, nên cũng chẳng để ý làm gì. Nhưng chiều tối hôm ấy,
hắn thấy “một người lạ, không phải là người làng, mà hắn thì hắn biết rõ
lắm”: Người ấy rẽ từ đường đi sâu vào trong rừng nơi rậm nhất; chắc chắn là
người kia không trông thấy hắn, bởi vì có một gốc cây che khuất. Người lạ
mặt mang một gói gì vuông vuông hình như là một cái hộp lớn hay một cái
hòm nhỏ. Boulatruelle ngạc nhiên hết sức; mãi bảy, tám phút sau hắn mới
nảy ra ý nghĩ theo dõi “kẻ lạ”. Nhưng chậm quá rồi; kẻ lạ đã ở trong rừng
sâu mà trời lại sập tối, nên theo không kịp. Thế là hắn đành đứng rình ở bìa
rừng. Trăng sáng. Hai ba tiếng đồng hồ sau, Boulatruelle mới thấy kẻ lạ kia
từ rừng sâu đi ra, tay xách một xẻng và một cái cuốc chứ không phải cái hòm
nhỏ như lúc nãy. Hắn để mặc người kia đi chứ không dám gọi lại hỏi; hắn
nghĩ là người ấy khỏe gấp ba hắn, lại có cuốc trong tay, người kia mà nhận
ra được hắn và biết mình đã bị lộ mặt thì thế nào hắn cũng bị đánh chết.
Nhưng cái xẻng và cái cuốc đã soi cho hắn một tia ánh sáng; hắn chạy đến
chỗ bụi rậm ban sáng thì chẳng thấy cuốc với xẻng đâu cả. Hắn kết luận rằng
kẻ lạ vào rừng chỉ là để lấy cuốc đào hố chôn cái hòm và lấy xẻng lấp đi. Cái
hòm nhỏ quá, không bỏ vừa một xác chết, vậy chỉ là hòm đựng tiền. Thế là
hắn ra công dò tìm. Boulatruelle sục sạo, thăm dò, chui rúc khắp cả khu
rừng, chỗ nào đất có vẻ mới đào lên là hắn xục tới. Nhưng không ăn thua gì.
Hắn chẳng “kiếm” được gì hết. Ở Montfermeil, không ai nghĩ đến cái
chuyện ấy nữa. Chỉ có vài mụ lắm mồm miệng có gan nói: “Hãy cứ tin rằng
cái lão phu lục lộ Gagny ấy chẳng dại hành thân hoại thể như vậy để mà
chơi. Chắc chắn là có quỷ sứ hiện”.