ông này trước kia làm Tỉnh Trưởng, nay thì là một người tốt, đứng đắn, ở ẩn
ở Paris, phố Cassette.
Bản thân Đức Cha Bienvenu như vậy là cũng có lúc thiên vị, có lúc buồn
nản, tâm hồn như có mây che. Bóng tối của những ham mê từng lúc lướt qua
đầu óc hiền lành và vĩ đại, thường xuyên chăm lo những vấn đề của vĩnh
viễn. Lẽ ra một người như thế đúng là không nên có chính kiến. Xin đừng
hiểu lầm về ý này, chúng tôi không lẫn lộn cái gọi là “chính kiến” với hoài
bão sâu xa về tiến bộ, với lòng tin tưởng cao quý Tổ Quốc, dân chủ và nhân
đạo, những cái mà ngày nay phải làm cơ sở cho mọi tấm lòng bác ái. Không
đi sâu vào những vấn đề không liên quan trực tiếp đến chủ đề của sách này,
chúng tôi chỉ nói đơn giản như sau: Tốt đẹp hơn, nếu Đức Cha Bienvenu
không phải là người Bảo Hoàng và mắt ông đừng một phút nào rời bỏ sự
chiêm ngưỡng thanh tĩnh; ở đó, vượt qua những bóng mây giông tố lớp lớp
lại qua của cuộc đời trần tục, vẫn sáng tỏ như ban ngày ba ánh sáng tinh thần
là Chân Lý, Chính Trực và Nhân Đạo.
Dù công nhận Chúa không sinh Giám Mục Bienvenu ra để làm chính trị,
chúng ta vẫn có thể hiểu ông và khâm phục ông, giá như ông phản kháng và
chống đối Napoléon thuở hùng cường, phản kháng và tự do và chính nghĩa,
cũng như chống đối một cách kiêu hãnh và chính đáng nhưng nguy hiểm.
Nhưng điều ta thích khi điều đó được áp dụng đối với kẻ đang lên, ta lại
không thích nếu áp dụng đối với người rơi xuống. Chúng ta chỉ thích đấu
tranh chừng nào đấu tranh còn nguy hiểm. Và bao giờ cũng vậy, chỉ riêng
những chiến sĩ buổi đầu mới có quyền làm người thanh toán giờ chót. Ai
chưa từng là kẻ buộc tội gay gắt đối phương trong thời thịnh vượng của nó,
thì khi nó sụp đổ, nên làm thinh. Chỉ có kẻ tố cáo sự thành công mới xứng
đáng làm người phán xử hợp pháp sự sụp đổ? Về phần chúng tôi, khi Đấng
Cứu Thế can thiệp và trừng phạt thì chúng tôi cứ im lặng để cho Người làm.
Cứ chứng kiến năm 1812 là chúng tôi thấy không muốn đánh người ta nữa
rồi.
Đến năm 1813, cơ quan Lập Pháp xưa nay ít nói bỗng nhiên lên tiếng
một cách hèn nhát vì đã được những tai họa của Đế Chế khuyến khích. Đó là
một việc chỉ đáng khinh bỉ, cho nên vỗ tay hoan hô là sai. Năm 1814, trước
lũ Thống Chế phản bội, trước cái Thượng Nghị Viện ngã từ cái đống bùn
nhơ này sang đống bùn nhơ kia, tôn thờ đó rồi chửi bới đó, trước sự sùng bái