hoàn toàn thay đổi. Có đủ loại bất ngờ - thậm chí, một hôm, còn có những
rèm cửa bằng vải ren cạnh lưới sắt, cuốn lên với dây màu hồng.
Nỗi buồn duy nhất của họ là không có ai ở đó để xem: không có khách,
không có người tình cờ đi qua, không có tiếng kêu lên thán phục và cái
nhìn thèm muốn! Có gì mà bà Homily không thể cho đi để có được một
người nhà Overmantel hoặc nhà Harpsichord cơ chứ? Ngay cả một người
nhà Rain-Barrel cũng còn tốt hơn là không có ai cả. “Con viết cho bác
Hendreary của con đi,” bà Homily đề xuất. “và kể cho bác ấy. Một lá thư
dài thú vị, nhớ nhé, và đừng bỏ sót gì nhé!” Arrietty bắt đầu lá thư trên mặt
sau một trong những tấm giấy thấm bỏ đi, nhưng khi cô viết nó thành ra chỉ
là một danh sách chán ngắt, quá quá dài, như một tập quảng cáo bán đồ
dùng hoặc danh sách đồ đạc của một ngôi nhà cho thuê; cô bé cứ liên tục
phải nhảy lên để đếm số thìa hoặc để tra từ trong quyển từ điển, và sau một
lúc cô bỏ nó sang một bên: còn rất nhiều việc khác phải làm, còn rất nhiều
cuốn sách mới phải đọc, và rất nhiều điều, giờ đây, cô bé có thể nói được
với cậu bé.
“Cậu ấy đã bị ốm,” cô bé nói với bố mẹ mình, “cậu ấy đang ở đây để có
được sự yên tĩnh và không khí nông thôn. Nhưng sắp tới cậu ấy sẽ về lại
Ấn Độ. Bố mẹ có biết,” cô bé hỏi bà Homily đang kinh ngạc, “là buổi đêm
ở vùng Bắc Cực dài sáu tháng, và khoảng cách giữa hai vùng cực còn ngắn
hơn là giữa hai đầu của đường kính kẻ ngang xích đạo?”
Phải, đó là những ngày hạnh phúc và tất cả đã rất tốt đẹp, như ông Pod sau
này nói, nếu họ hạn chế việc đi mượn từ ngôi nhà của búp bê. Thì không ai
trong số những con người sống trong ngôi nhà có vẻ nhớ rằng nó có ở đó
và kết quả là không ai để ý là có đồ biến mất. Tuy nhiên, phòng khách nhỏ
không tránh được trở thành một sự cám dỗ: ngày nay nó ít khi được sử
dụng; có rất nhiều bàn với đồ trang trí lặt vặt quá xa tầm với của ông Pod,
và cậu bé, tất nhiên, vặn được chìa khóa ở trong các cửa kính tủ.