này gọi là ‘một cái nhìn nghiêm trọng’ khi bà ta tả về bà Homily trên
giường - ‘Pha thêm nước với thứ đó rồi,’ cái nhìn ấy có vẻ như nói thế.”
“Thêm nước với thứ gì cơ?” Kate hỏi.
“Với rượu Fine Old Pale Madeira, bà đoán vậy,” bà May nói. “Và bà dì
Sophy cũng cùng mối ngờ vực như thế: bà đã rất tức giận khi nghe nói bà
Driver nhìn thấy nhiều người tí hon trong khi chính bà sau một bình rượu
đầy chỉ nhìn thấy một hoặc quá lắm là hai người tí hon. Crampfurl đã phải
đem tất cả rượu Madeira lên từ tầng hầm và chồng các két rượu áp vào
tường trong một góc phòng ngủ của bà dì Sophy, nơi, như bà đã nói, bà có
thể để mắt tới nó.”
“Thế họ có mang con mèo đến không?” Kate hỏi.
“Có, họ có mang. Nhưng việc đó cũng không thành công lắm. Đó là con
mèo của Crampfurl, một con mèo đực to màu vàng có những vệt trắng.
Theo như bà Driver kể, nó chỉ có hai ý nghĩ trong đầu - trốn ra ngoài nhà
hoặc vào tủ đựng thức ăn. ‘Nói về những Người Vay Mượn,’ bà Driver nói
trong khi bà ta vứt cái bánh cá xuống cho em ta ăn trưa, ‘cái con mèo đó là
một đứa vay mượn, nếu đã từng có ai như vậy; nó đã mượn con cá, cái con
mèo đó, và hơn một nửa bát nước xốt trứng!’ Nhưng con mèo đã không ở
đó lâu. Việc đầu tiên những con chó sục của người bắt chuột làm là đuổi
con mèo ra khỏi nhà. Lúc đó đã có một cuộc ẩu đả đáng sợ, em trai ta kể.
Bọn chó đuổi con mèo khắp nơi - tầng trên rồi tầng dưới, ra vào tất cả các
phòng, sủa nhặng xị. Em trai ta thoáng nhìn thấy con mèo lần cuối cùng khi
nó chạy xuyên qua lùm cây và những cánh đồng, theo sau là lũ chó sục.”
“Chúng có bắt được nó không?”
“Không,” bà May cười. “Nó vẫn ở đó khi ta đến một năm sau đó. Hơi rầu rĩ
nhưng khỏe như vâm.”
“Bà kể về lúc bà đến thăm đi!”