này,” họ nghe thấy bà nói, “lại có gió Đông rồi.” Rồi họ nghe thấy bà cất
giọng gọi, “Crampfurl!”
Pod ủ rũ nhìn sàn nhà một cách chăm chú; Arrietty hơi run rẩy và thu mình
chặt hơn vào trong chiếc chăn đan còn bà Homily hít một hơi dài và chậm.
Bất chợt bà ngẩng đầu lên.
“Con bé nói đúng,” bà tuyên bố chắc nịch.
Mắt Arrietty tròn xoe. “Ôi, không...” cô bé cất giọng. Cô bé bị bất ngờ vì
được cho là đúng. Bố mẹ luôn đúng, con cái thì không. Con cái có thể nói
bất cứ chuyện gì, Arrietty biết, và cứ tha hồ mà nói - biết chúng luôn được
an toàn và luôn sai.
“Ông hiểu không, ông Pod,” bà Homily nói tiếp, “thời của tôi với ông thì
khác lắm. Lúc đó có các gia đình khác, những đứa trẻ con khác... nhà
Sink
ở trong phòng rửa bát, ông nhớ không? Và những người sống ở sau
cái máy mài dao ấy - giờ tôi quên mất tên họ rồi. Và những chàng trai nhà
Broom-Cupboard
. Rồi còn có lối đi dưới lòng đất từ chuồng ngựa - ông
biết đấy, lối mà gia đình Rain-Pipe đã dùng. Chúng ta đã từng có, có thể nói
vậy, nhiều tự do hơn.”
“À, đúng,” ông Pod nói, “theo một cách nào đó. Nhưng tự do sẽ đưa bà đến
đâu?” Ông ngập ngừng nhìn lên. “Bây giờ tất cả họ đang ở đâu chứ?”
“Một số đã có cuộc sống tốt hơn, tôi nghĩ chắc thế,” bà Homily gay gắt nói.
“Thời gian đã thay đổi toàn bộ ngôi nhà này. Đồ thừa không như hồi trước.
Có những người đã ra đi, ông nhớ chứ, khi họ đào rãnh cho ống ga. Xuyên
qua những cánh đồng, và xuyên qua khu rừng, và tất cả. Một loại đường
hầm cho họ, đến tận Leighton Buzzard.”
“Và họ đã tìm thấy gì ở đó?” ông Pod hỏi với giọng chẳng mấy nhã nhặn.
“Một núi than!”