trượt để khỏi phải bê vác. Từ sau việc xảy ra trên rèm cửa sổ họ đã đẩy một
cái tủ với những ngăn kéo bằng hộp diêm vào bên dưới lỗ chuột, và đặt một
chiếc ghế trên cái tủ ngăn kéo; và ông Pod, nhờ có bà Homily đẩy và hỗ
trợ, đã học được cách lách lên chiếc cầu trượt thay vì xuống. Bằng cách này
ông không phải mạo hiểm ra hành lang lớn và các lối đi; ông có thể chạy
vụt ra, từ bên dưới cái bếp lò màu đen to tướng trong bếp, để lấy một cây
đinh hương hay củ cà rốt hoặc một miếng thịt hun khói ngon lành. Nhưng
đó không phải là cách sắp xếp thỏa đáng: ngay cả khi bếp lửa đã tắt, thường
vẫn có tro nóng và than cháy dở dưới bếp lò và có lần, khi ông đang đi ra,
một cái chổi khổng lồ trên tay bà Driver tiến về phía ông; và ông trượt trở
xuống, đè lên bà Homily, cháy sém, run rẩy, và ho vì bụi. Một lần khác, vì
lý do nào đó, bếp lửa đang cháy to thì ông Pod bất ngờ đến bên dưới cái địa
ngục rực rỡ đang bắn tung ra những miếng than nóng trắng ấy. Nhưng
thông thường, vào ban đêm, ngọn lửa đã tắt, và ông Pod có thể lần đường
tránh những miếng than cháy dở để vào trong bếp.
“Bà Driver đang ở ngoài,” bà Homily nói tiếp. “Hôm nay là ngày nghỉ của
bà ấy. Và Bà...” - họ luôn gọi bà dì Sophy là “Bà” - “đang yên ổn trên
giường.”
“Họ không phải là người làm tôi lo lắng,” ông Pod nói.
“Tại sao,” bà Homily kêu lên gay gắt, “cậu bé không còn ở đây đúng
không?”
“Tôi không biết,” ông Pod nói, “luôn có rủi ro,” ông nói thêm.
“Và sẽ luôn luôn có,” bà Homily đáp lại, “như khi ông ở trong hầm chứa
than và xe than đến.”
“Nhưng hai người kia,” ông Pod nói, “bà Driver và Bà, tôi luôn biết họ
đang ở đâu, kiểu thế.”
“Về chuyện đó thì,” bà Homily kêu lên, “một cậu bé còn tốt hơn. Ta có thể
nghe thấy một cậu bé từ xa một dặm. Thôi,” bà nói tiếp sau giây lát, “làm