theo ý ông đi. Nhưng nói về rủi ro thì thật chẳng giống ông tí nào...”
Ông Pod thở dài. “Được rồi,” ông nói và quay đi để lấy cái túi đi mượn của
mình.
“Đem con bé theo,” bà Homily nói với ông.
Ông Pod quay lại. “Này, bà Homily,” ông cất giọng sợ hãi.
“Tại sao không?” bà Homily hỏi gay gắt. “Đã đến ngày đó. Ông không
vượt quá cửa ra vào. Nếu cảm thấy lo lắng thì ông có thể để con bé lại cạnh
cái đồng hồ, sẵn sàng chạy vụt vào bên dưới, xuống cái lỗ. Dù sao cũng để
cho nó nhìn thấy chứ. Arrietty!”
Trong khi Arrietty chạy vào, ông Pod thử lại lần nữa. “Này nghe đây, bà
Homily...” ông phản đối.
Bà Homily phớt lờ ông. “Arrietty,” bà phấn khởi nói, “con có muốn đi cùng
bố và mượn cho mẹ những chiếc lông thảm cửa ở hành lang để làm bàn
chải không?”
Arrietty khẽ nhảy cẫng lên. “Ôi,” cô bé kêu lên, “con được đi ư?”
“Ừ, cởi cái tạp dề ra,” bà Homily nói, “và thay ủng đi. Con cần đôi giày
nhẹ khi mượn - nên đi đôi giày da đỏ.” Và rồi trong khi Arrietty quay đi, bà
Homily quay về phía ông Pod. “Con bé sẽ ổn thôi,” bà nói, “rồi ông xem.”
Trong khi theo bố mình xuống lối đi, tim Arrietty bắt đầu đập nhanh hơn.
Giờ đây khi cuối cùng lúc đó đã đến cô bé cảm thấy nó gần như quá sức
chịu đựng. Cô bé cảm thấy hơi choáng váng, run rẩy, và trống rỗng vì phấn
khích.
Họ có ba cái túi đi mượn giữa hai người (“Phòng trường hợp chúng ta nhặt
được cái gì đó,” ông Pod giải thích. “Một Người Vay Mượn kém cỏi sẽ mất
nhiều cơ hội vì thiếu một chiếc túi dự phòng.”) và ông Pod để những chiếc
túi đó xuống để mở cánh cổng đầu tiên, được chốt bằng một cái kim băng.