mình lau chùi các cửa sổ ở tầng một thì họ nên nghĩ lại. Nhưng vào đêm
thứ ba, đúng lúc Arrietty trèo xuống khỏi chiếc ghế đẩu trước khi có nguy
cơ mất thăng bằng vì mệt mỏi, cô bé nghe thấy Crampfurl nói, “Nếu bà hỏi
ý kiến tôi, tôi sẽ nói là nó có một con chồn sương.” Và Arrietty lại vội trèo
lên, nín thở.
“Một con chồn sương!” cô bé nghe bà Driver kêu lên the thé. “Rồi đây còn
đến cái gì nữa chứ? Nó giữ con chồn ở đâu?”
“Điều đó thì tôi không biết được,” Crampfurl nói bằng cái giọng trầm ồm
của ông, “tôi chỉ biết là nó đi quá Parkin’s Beck, vòng quanh tất cả các bờ
đất và cất tiếng như thể đang gọi vọng xuống tất cả các hang thỏ.”
“Thật không thể tin được,” bà Driver nói. “Cốc của ông đâu?”
“Chỉ một ly thôi,” Crampfurl nói. “Đủ rồi. Vào gan của ta, thứ ngọt này -
không phải như bia, không hề. Đúng thế,” ông nói tiếp, “khi nhìn thấy tôi
đang cầm súng đi đến thì nó giả vờ như đang cắt một cái que từ hàng rào
cây. Nhưng tôi nhìn thấy nó rồi và đã nghe thấy nó. Gọi ầm ĩ, mũi của nó gí
xuống dưới một cái hang thỏ. Tôi nghĩ nó có một con chồn sương.” Có một
tiếng ực, như thể Crampfurl vừa uống. “Phải,” cuối cùng ông nói, và
Arrietty nghe thấy ông đặt cốc xuống, “một con chồn sương tên là Bác gì
đó.”
Arrietty đột ngột cử động, giữ thăng bằng trong một chốc với hai cánh tay
vẫy vẫy, rồi ngã khỏi ghế. Có một tiếng lóc cóc khi chiếc ghế trượt ngang,
đập vào một cái tủ ngăn kéo và đổ rầm.
“Cái gì thế?” Crampfurl hỏi.
Trên nhà im lặng và Arrietty nín thở.
“Tôi tuyệt chẳng nghe thấy gì cả,” bà Driver nói.
“Có,” Crampfurl nói, “hình như ở dưới sàn nhà, ở đằng kia cạnh cái bếp
ấy.”