dâng trào, cô bé gắn nó vào bằng sáp nến.
Những cánh cổng đang mở và cô bé để nến ở giữa hành lang nơi nó sẽ
không gây nguy hiểm, ngay dưới cái lỗ cạnh đồng hồ.
Khi cô bé trèo vào cái hành lang vĩ đại thì nơi đó tờ mờ với những khoảng
tối. Ngọn đèn ga vặn nhỏ phát ra một vòng ánh sáng bên cạnh cửa chính
được khóa trái và một ngọn đèn khác lung linh trên chiếu nghỉ giữa cầu
thang. Trần nhà cao hút và tối, xung quanh là khoảng trống. Phòng trẻ, cô
bé biết, ở cuối hành lang tầng trên và cậu bé đang ngủ - mẹ cô đã nói thế.
Arrietty đã quan sát bố dùng cây kim cắm lên ghế, và lên từng bậc cầu
thang, nếu so ra thì dễ hơn. Sau giây lát sẽ thành một kiểu nhịp: quăng, kéo,
trèo, và một cú đu người lên trên. Các thành cầu thang lóe sáng lạnh lùng,
nhưng đống thảm có vẻ mềm và ấm, đặt chân xuống thật dễ chịu. Trên
chiếu nghỉ cầu thang cô bé dừng lại thở. Cô bé không sợ sự mờ tối; cô bé
sống ở trong bóng tối; đối với cô bé thì như vậy chẳng khác gì ở nhà và
những lúc thế này, cô bé cảm thấy an toàn.
Trên đầu cầu thang cô bé nhìn thấy một cánh cửa đang mở và một ô vuông
lớn tỏa ánh sáng vàng như một chướng ngại vật nằm ngang hành lang.
“Mình phải đi qua chỗ đó,” Arrietty tự nhủ, cố gắng can đảm. Bên trong
căn phòng được chiếu sáng, một giọng đang nói, đều đều. “... Và con ngựa
cái này,” giọng đó nói, “là một con năm tuổi mà thực ra là của người anh
em tôi ở Ailen, không phải anh mà là em trai tôi, vốn là chủ của Bí Tắc và
Ôi Cưng. Ông ấy đã cho nó tham gia nhiều cuộc đua ngựa vượt rào...
nhưng tôi nói ‘nhiều’ tức ý tôi là ba hoặc ít nhất là hai... Ông đã bao giờ
xem một cuộc đua ngựa vượt rào của Ailen chưa?”
“Chưa,” một giọng khác nói, khá lơ đãng. “Đó là bố,” Arrietty giật mình
nhận ra, “bố đang nói chuyện với bà dì Sophy hay thực ra là bà dì Sophy
đang nói với bố mình.” Cô bé nắm chắc những vòng dây giữ cây kim của
mình, rồi chạy vào vùng ánh sáng và băng qua nó đến đầu kia hành lang.