“Có đấy,” bà Homily vừa kêu lên vừa tìm cặp uốn tóc trong một cái ngăn
kéo, “trong những lúc thế này ta không biết được. Tôi sẽ không thình lình
bị bắt với mái tóc như thế này đâu!” bà cáu cẳn rồi lật ngược ngăn kéo và
nhặt đồ đạc rơi ra.
Cuối cùng thì bà cũng lên giường với bộ tóc chĩa lên như đinh, giống như
một con búp bê da đen bằng vải bị giặt, cuối cùng ông Pod đành thở dài
đánh thượt rồi quay đi và nhắm mắt.
Bà Homily nằm một lúc lâu nhìn chằm chằm vào chiếc đèn dầu; đó là cái
nút bằng bạc của một chai nước hoa với cái bấc tí xíu trôi nổi trên dầu. Bà
không muốn, vì lý do nào đó, thổi tắt nó. Có tiếng đi lại trong phòng bếp
trên nhà, giờ này đã muộn quá làm gì còn ai đi lại - cả nhà lẽ ra đang ngủ cả
rồi - và cái kẹp uốn tóc gồ ghề ấn vào gáy bà thật khó chịu. Bà nhìn say sưa
- y như Arrietty đã làm - quanh căn phòng quen thuộc (quá nhiều đồ, bà
nhận ra, nào những chiếc túi nhỏ bé, nào những cái hộp, nào những cái tủ
tạm bợ) và nghĩ, “Bây giờ thì sao? Có thể cuối cùng cũng chẳng có gì xảy
ra; con bé có thể nói đúng, chúng ta đã làm chuyện bé xé ra to; cậu bé ấy dù
sao cũng chỉ là một người khách; có lẽ thế,” bà Homily nghĩ, “nó lại sắp rời
khỏi đây,” bà uể oải tự nhủ, “và thế là hết chuyện.”
Sau đó (như sau này bà nhận ra) bà đã chợp mắt một chút vì có vẻ như bà
đang đi qua cánh đồng Parkin’s Beck; lúc đó đang đêm, gió thổi và cánh
đồng có vẻ rất dốc; bà lật đật trèo lên dọc theo thành đường ống ga, rồi
trượt ngã vào mớ cỏ ướt. Những cái cây đối với bà có vẻ như đang đập đập
vào nhau, cành phất phơ đung đưa trên bầu trời. Lúc đó (như bà kể cho họ
nghe nhiều tuần sau đó) có tiếng gỗ bị bẻ gãy...
Và bà Homily tỉnh dậy. Bà lại nhìn thấy căn phòng và cái đèn dầu lập lòe,
nhưng có gì đó khác biệt, bà biết ngay: có một luồng gió kỳ lạ và bà cảm
thấy miệng khô và đầy sạn. Rồi bà nhìn lên trần nhà: “Ông Pod!” bà thét
lên, tóm lấy vai ông.