lớn. Ban đầu Strong cố gắng đóng vai trò là người hoà giải song
cuối cùng ông lại nghiêng về phía Ngân hàng Trung ương Pháp.
Ông vô cùng giận dữ khi được biết các báo cáo trong giới chính trị và
ngân hàng châu Âu cho rằng ông bạn quý Norman của mình đang
cố gắng “thiết lập một kiểu chế độ độc tài lên các ngân hàng
Trung ương của châu Âu” và rằng Strong “đang hợp tác với ông để
cùng thực hiện chương trình đó và ra sức ủng hộ ông.” Rõ ràng
Norman đã lợi dụng tình bạn của họ để tạo cho mọi người ấn tượng
rằng ông đã nắm FED trong lòng bàn tay.
Đến giờ, ông đã bắt đầu hối hận vì đã ủng hộ chủ thuyết
rằng các ngân hàng Trung ương nên được khuyến khích nắm giữ
đồng bảng như một phương tiện thay thế cho vàng. Chính sách này
đã cho phép nước Anh níu giữ vị thế quốc tế của mình thông qua
việc tận dụng địa vị của đồng bảng với tư cách là một đồng tiền chủ
chốt để trì hoãn một số lựa chọn khó khăn. Bằng cách né tránh
một cuộc khủng hoảng tức thời, chính sách đó đã tạo cơ sở cho một
cuộc khủng hoảng khác thậm chí còn khủng khiếp hơn trong tương
lai. Khi tiền của tiếp tục đổ vào nước Pháp, Ngân hàng Trung ương
Pháp đã tích luỹ được hơn một triệu đô-la tiền bảng, rồi tới một lúc
nào đó, họ sẽ muốn chuyển một phần số tiền đó ra vàng. Strong
cũng phần nào thông cảm với tình thế tiến thoái lưỡng nan của họ.
Chế độ bản vị vàng đòi hỏi rằng một ngân hàng Trung ương nên
cho phép tất cả những ai tìm đến ngân hàng đều được tự do
chuyển đổi tiền mặt mình có sang vàng thỏi. Song trừ phi vị thế của
nước Anh được cải thiện, bằng không một động thái như vậy có thể
hút cạn cả kho dự trữ của Ngân hàng Trung ương Anh quốc và đe
doạ chính khả năng đứng vững của chế độ bản vị vàng.
Ông cũng bắt đầu nhận ra rằng chính sách giữ lãi suất của
nước Mỹ ở mức thấp nhằm hỗ trợ đồng bảng đã thất bại trong
việc giải quyết vấn đề căn bản của nền kinh tế Anh - rằng giá cả