khi đã chọc được quả bóng xì hơi, và giá cả đang trở lại mức hợp lý, tại
sao lại làm hỏng quá trình và làm cho tín dụng có lãi suất thấp
thêm lần nữa. Như người ta vẫn bàn nhau, sự nới lỏng thêm nữa sẽ
chỉ dẫn đến sự lặp lại “những gì đã diễn ra vào năm 1927 mà giờ nhìn
chung đã được thừa nhận là một thảm họa.” Sự suy thoái là kết quả
trực tiếp của sự đầu cơ quá mức trong quá khứ, trong đó tiền bị
ném vào những nơi ngớ ngẩn không mang lại hiệu quả kinh tế. Cách
duy nhất để quay trở lại một nền kinh tế lành mạnh là cho phép
nó bị tổn thương một thời gian, giống như một người tự hành xác để
bù lại những sự thừa thãi anh ta có được trong mấy năm vừa qua.
Do quan niệm về một chính sách tiền tệ tích cực nhằm chống
lại vòng xoáy suy thoái trong kinh doanh còn quá mới mẻ và những
hiểu biết về hoạt động của nền kinh tế còn quá thô sơ, cuộc tranh
luận giữa những bè phái trong nội bộ FED trở nên lộn xộn và đôi khi
không thể hiểu nổi. Tháng Chín năm 1930, Thống đốc Norris, một
nhân vật nhiều kinh nghiệm và đáng kính trọng khác trong ngành
ngân hàng cũng tranh cãi trong một cuộc họp của FED rằng bằng
việc nới lỏng lãi suất, họ đã làm tụt hậu các chính sách của mình.
“Chúng ta đã đẩy mạnh cho vay vào thời điểm suy thoái, khi mà
không ai muốn mà cũng không ai có thể tận dụng, và sẽ phải thắt
chặt nó lại khi ai cũng muốn và cũng có thể sử dụng.” Ông đã không
nhận ra rằng logic trong lập luận của mình sẽ dẫn đến một ý kiến
sai lầm ngớ ngẩn khác là FED nên thu hẹp cho vay vào lúc suy thoái
để có thể cho vay nhiều hơn khi kinh tế bùng nổ.
Mặc dù ngôn ngữ và cách trình bày khác nhau, các quan chức của
FED đều có chung quan điểm. Một trong số các thống đốc đã ví
những nỗ lực của FED làm hồi sinh nền kinh tế như một ban nhạc
đang cố hết sức kéo nhạc đuổi theo “một điệu nhảy dài như chạy
việt dã.” Một dịp khác, ông so sánh nó với một bác sĩ phẫu thuật đang