Trong mấy tháng đầu tiên, mọi sự dường như vẫn tuân theo kế
hoạch đã định. Thị trường chứng khoán châu Âu cũng giảm chút ít do
có mối liên hệ với Phố Wall, nhưng vì chưa leo giá quá cao, nó trượt
dốc nhẹ nhàng hơn nhiều. Trong khi thị trường Mỹ mất đến
40%, thị trường Anh chỉ giảm có 16%, Đức là 14% còn Pháp chỉ có
11%. Mặc dù thị trường Anh cũng có quy mô tương đương với thị
trường Mỹ nếu so sánh chúng với tỷ lệ GDP tương ứng ở từng nước,
người dân Anh thích trò cá độ thể thao hơn và nhường sân chơi chứng
khoán lại cho những nhân vật có tầm cỡ, trong khi đó thị trường
Pháp và Đức quá nhỏ bé. Vì vậy mà cơn khủng hoảng đã không có tác
động tương tự [như ở Mỹ] lên tâm lý của người tiêu dùng và nhà đầu
tư châu Âu, và ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế cũng vì thế mà
nhẹ hơn nhiều. Hơn nữa, khi tình hình tín dụng được nới lỏng ở Mỹ,
cho vay nước ngoài lại hồi sinh. Tiền bỗng nhiên trở nên sẵn có.
Các ngân hàng Trung ương châu Âu không còn phải ra sức bảo vệ
vàng dự trữ của mình khỏi lực hút của New York nữa nên cũng có thể
cắt giảm lãi suất theo FED. Tháng Sáu năm 1930, với lãi suất tại
Mỹ thấp như hồi trước chiến tranh là 2,5%, Ngân hàng Anh cũng
hạ lãi suất của mình xuống còn 3,5%, Reichbank xuống còn 4,5%,
và Ngân hàng Pháp xuống còn 2,5%.
Ngay khi nỗi lo sợ phải dập tắt một cuộc tấn công lên đồng
bảng Anh đã lùi xa, Norman lại bị làm mất mặt thêm lần nữa.
Tháng Mười Một năm 1929, một vài tuần sau cuộc khủng hoảng,
chính phủ mới của Anh do đảng Lao động cầm đầu đã phản ứng lại
những lời chỉ trích về nền kinh tế nghèo nàn kiểu địa phương của
nước Anh bằng cách thành lập một ủy ban dưới sự điều hành của vị
thẩm phán xuất chúng Lord Macmillan có nhiệm vụ điều tra hoạt
động của hệ thống ngân hàng Anh. Một nửa trong số mười bốn
thành viên là người trong ngành ngân hàng; số còn lại là tập hợp của
các nhà kinh tế, nhà báo, nhà công nghiệp, trong đó có ba người
luôn trung thành với việc chỉ trích chế độ bản vị vàng là Maynard