thống đốc thêm mười một năm nữa – có lẽ bởi vì khi quyền lực đã
không còn, ông ta sẽ không thể làm điều gì gây hại nữa.
Cuối những năm 1930, ông trở nên thân thiết với những người
theo đường lối hòa giải. Mặc dù không trở thành một phần của hội
những nhà quý tộc Cliveden của Nancy Astor, những người rất khó
chịu với những vụ tai tiếng và những lời bàn tán xì xào trong giới
chính trị, ông cũng chung quan điểm với họ rằng một cuộc chiến
tranh nữa sẽ là rất bi thảm và sẵn sàng làm mọi thứ để ngăn chặn nó.
Chủ nghĩa hòa giải trở thành một từ ngữ rất được coi trọng – nó
không hề hàm ý sự hèn nhát hay tự dối mình. Thực tế nó không
chỉ được coi như một chính sách thực dụng mà còn rất đạo đức nữa.
Trong cảnh tàn sát dã man của Thế chiến Thứ nhất, chủ nghĩa hòa
bình rất được tán dương còn sự tức giận và oán hờn của người Đức
đối với Hiệp ước Versailles được xem là hợp lý. Trong trường hợp của
Norman, quan điểm này quay trở lại cùng với sự thiên vị của ông
dành cho những người Đức chăm chỉ đối lập với những người Pháp
bội bạc, và cũng bởi sự ngưỡng mộ của ông với Schacht và thậm chí là
những thành tựu của Hitler suốt những năm đầu của chế độ Đức
quốc xã – người ta đồn là ông đã nói với Morgan rằng “Hitler và
Schacht chính là bức tường thành bảo vệ nền văn minh của nước
Đức.”
Những tháng cuối năm 1939, khi nguy cơ chiến tranh ngày càng
hiện hữu rõ ràng, ông than vãn với Đại sứ Mỹ tại London, Joseph
Kennedy rằng “nếu cuộc chiến này nổ ra, nước Anh, như chúng ta
vẫn biết rõ, sẽ đến hồi kết… không có vàng hay tài sản ở nước
ngoài, thương mại sẽ càng ngày càng bị thu hẹp hơn. Kết cục sẽ là
thế này… Đế chế sẽ bị thu hẹp cả về lãnh thổ lẫn quyền lực, chỉ
còn như những quốc gia khác mà thôi.”
Suốt những năm 1930, ông và Schacht vẫn duy trì tình bạn thân
thiết – họ thường xuyên gặp gỡ tại các phiên họp hàng tháng của BIS