gắt trong nhiều năm, nó làm hình thành hiểu biết về nền kinh
tế tiền tệ hiện đại và cho đến tận ngày nay vẫn cung cấp cơ sở cho
sự điều hành hệ thống của rất nhiều các chính phủ và ngân hàng
Trung ương.
Một năm sau khi lý thuyết chung được xuất bản, mùa xuân năm
1937, Keynes bắt đầu phải chịu đựng một trong số rất nhiều
“cơn đau tim.” Ông được chẩn đoán là có vấn đề mãn tính liên
quan đến bệnh tim do sự nhiễm khuẩn van tim gây ra. Năm 1939,
ông gặp được bác sĩ Janos Plesch, một người Do Thái gốc Hungary
di cư, người mà theo Keynes là gạch nối giữa một “thiên tài” và một
“tên lang băm”. Ngoài một số các phương pháp chữa bệnh dân gian
– kiểu chữa bệnh bằng cách đặt các túi đá lên ngực bệnh nhân trong
vòng ba giờ đồng hồ hay để bệnh nhân nằm trên giường rồi nhảy
lên nhảy xuống người họ ‒ bác sĩ cho Keynes uống một các loại
thuốc dòng sulphamit mới được phát minh, loại kháng sinh đầu
tiên và duy nhất có hiệu quả trong những năm trước khi penicillin
được sử dụng rộng rãi. Mặc dù tình trạng tim của ông không được
chữa khỏi hoàn toàn, nhưng với sự chăm sóc của bác sĩ Plesch lập dị ‒
người mà [vợ ông] Lydia đặt cho biệt hiệu là “Con yêu tinh” – Keynes
ít nhất cũng có thể trở lại làm việc.
Suốt những năm 1930, hoạt động đầu cơ khiến Keynes trở nên
giàu có. Sau khi mất 80% tài sản do giá cả hàng hóa sụt giảm vào
năm 1928, đến cuối năm 1929, ông lại đã có danh mục đầu tư trị
giá khoảng gần 40.000 đô-la. Ông chuyển chiến lược từ đầu cơ
ngắn hạn sang đầu tư dài hạn và tại thời điểm cuộc Đại khủng
hoảng chạm đáy, ông tập trung danh mục của mình vào một số tài
sản tại Anh và Mỹ. Tin tưởng rằng Roosevelt sẽ thành công trong
việc phục hồi nền kinh tế Mỹ, Keynes dùng lãi từ hoạt động đầu
tư để tăng suất đòn bẩy của mình lên khoảng hai trên một. Đến
năm 1936, giá trị tài sản của ông đã lên tới gần 2,5 triệu đô-la –