hay tuần phủ ngoài Trung. Có người coi kho lương, kho bạc, giữ sổ sách.
Trong phòng khách, có ghế trường kỷ, mâm hút á phiện, bầu rượu, quạt trần
như bậc công hầu.
Lãnh tụ Lò Cheng có uy quen tuyệt đối. Hắn sống như đế vương. Hàng
ngày ăn uống mâm cao cỗ đầy, hút thuốc phiện thả giàn. Mỗi ngày Lò
Cheng sai thủ hạ đi “Nấu” chỗ này “Hấp” chỗ kia. Khi Nấu và Hấp chỗ nào
thì nơi đó phải tổ chức: Đặt bàn cúng tổ, chưng dọn cỗ bàn, tiệc tùng.
Những người tham dự ở trần, quỳ trước bàn lổ, có thị vệ đứng hầu. Đái Mã,
hoặc Hồng Đằng ăn mặc theo kiểu võ sư, bịt khăn đầu rìu. Thủ tục gia nhập
phải tuyên thệ tuân mệnh lệnh và tuyệt đối trung thành với lãnh tụ. Trước
khi hành lễ, họ trích máu hoà với rượu uống thề sống chết có nhau, đồng
tâm, đồng chí không được phản. Lò Cheng sống như chúa tể trong vùng,
được cung phụng đủ thứ trưởng giả, đài các. Hắn làm thơ, đặt liễn đối trong
nhà để khoe khoang: Trên bàn thờ tổ:
Thiên thai Minh đê, triều tân quắc,
Địa hội nhân hoà, cách cựu bang.
Dịch nghĩa:
Trời mở hội Minh đê, trị vì nước mới,
Đất hội người hoà, sửa đổi chính sách cũ.
Hai câu liễn dán trong phòng khách:
Tư lệnh thập điều chính nghĩa,
Anh hùng thải vi gia.
Dịch nghĩa:
Luật lệnh có mười điều chính nghĩa,
Anh hùng trong bốn biển là nhà.
Hoặc 4 câu khác:
Vị tri Thiên địa, đoàn hoà trường,
Ngọc xích Lỗ Ban, tự độ lường
Lượng đắc bất đa, hoà bất thiểu,
Văn hậu Minh chúa lập đê bang…