khổ, lam lũ của người nông dân, đồng thời thấy nếp sống trưởng giả, xa xỉ
của các nhà giàu xưa. Có dân Hồ Biểu Chánh viết: “Làm ruộng ở xứ mình
là làm lợi cho chủ điền chớ ham làm chi”. Trong quyển “Nhân tình ấm
lạnh”, quan phủ đi ăn tân gia, rồi sẵn dịp “làm tiền khéo léo, hăm doạ các
chức việc làng như sau:
- Xã! (Xã trưởng) sao mày không lo thâu thuế mà đóng cho tốt, lại bê trễ
dữ vậy? Quan lớn Chánh (Chủ tỉnh) mới biểu tao viết trát mà quở làng, mày
được trát hay chưa?
Xã Chọn nghe quan Phủ kêu, lật đật chạy tới chấp tay mà xá, chừng nghe
quan Phủ nói tới chuyện quan lớn Chánh quở làng, thì mặt biến sắc và nói
rằng:
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn thương giùm làng chúng tôi!
- Thương nỗi gì! Tháng này mà các sắc thuế còn thiếu cho tới 2000 đồng.
- Bẩm quan lớn, làng tôi còn thiếu thuế nhiều là vì mấy ông điền chủ ở
xa, không chịu đem bạc tới mà đóng. Làng chúng tôi có phúc bẩm ba bốn
lần, xin quan lớn Chánh thâu dùm mà họ cũng trơ trơ, chớ phải chúng tôi
dám bê trễ đâu… Làng tôi có thiếu thuế đinh (thuế thân) là tại mấy chục
dân đào, nên thâu không được.
- Thì thâu trước đi, ai biểu để trễ làm chi cho chúng nó đào (trốn)?
- Bẩm quan lớn…
- Thôi, đừng bẩm chi nữa!
Nhắc thêm về cách ăn ở của ông Hội đồng Quá tại Mỏ Cày. Ông có nhiều
con, trong số có một người con trai tên Ất, ăn ở hiền lành hơn cha. Tuy
nhiên, cậu Ất ham cờ bạc, thân mật với tá điền, rộng rãi với anh em, điệu
nghệ với bạn bè, hay ăn xài lớn.
Trước khi chết, ông Hội đồng Quá có làm di chúc để lại, chia cho cậu Ất
một phần nhỏ gia tài, nhưng cấm cậu để tang và lạy trước linh cữu
Khi Hội đồng Quá mất, quan tài quàn luôn trong 3 tháng 10 ngày (100
ngày). Ngày nào cũng ngả heo, bò đãi khách tới viếng. Trong thời gian đó,