cậu Ất năn nỉ với người trong gia đình cho mình được mặc đồ tang và lạy
cha báo hiếu. Sau nhiều ngày thuyết phục, bà con lối xóm ai cũng nói vô,
khiến người trong gia đình xiêu lòng, chấp thuận yêu cầu của cậu. Trong
khi đứng vái, rồi phủ phục trước quan tài, tự nhiên nghe tiếng “rắc”, rồi như
có sự trở mình của người nằm trong quan tài. Cái bản kê từ từ giãn ra, rồi
bung cả nắp hòm. Mùi hôi thúi xông lên nồng nặc, khách khứa bỏ chạy tán
loạn. Điều đó tuy có vẻ hoang đường nhưng là sự thực. Mỗi khi xác chết
còn quàn hay chưa tẩm liệm, người thân hay bạn bè tới lạy, tự nhiên “xì
hơi”. Nếu ít thì đem cây đèn cầy tới rà dọc theo nắp hòm, cây đèn cầy sẽ
tắt!
Theo lời người địa phương, trước khi chết, ông Hội đồng Quá đau bịnh
liên miên. Một hôm có mấy người ở đợ trong nhà ông Huyện Quá tới thăm
ông Huyện Minh, thân phụ ông Quá. Ông Huyện Minh hỏi đầy tớ:
- Ông bây bịnh đã đỡ chưa?
Một trong mấy người đầy tớ thưa:
- Bẩm ông, ông con cứ đau rề rề hoài.
- Bây về biểu nó (Hội đồng Quá) lấy cái cơi gạt lúa, xắc uống thì hết.
Mấy thập niên đầu thế kỷ, người ta đong lúa với cái giạ bằng tre, xây tròn
như cái giạ bằng thiếc Cao Bằng, trên miệng có niềng mây đóc. Khi đong
lúa cho tá điền vay, Hội đồng Quá dùng cái giạ cũ, xài lâu ngày, gạt miệng
mòn đi, ít hao lúa. Đến mùa thâu lúa ruộng, ông dùng cái giạ mới, với cái
cơi gạt vun chùn, như vậy sẽ dư ra vài lít. Mỗi năm thâu vô bán ra hàng
chục ngàn giạ, ông lấy dư của tá điền vô số kể. Đối với Hoa kiều từ các
chành lúa đến mua, họ đem theo cái giạ riêng, khó ăn gian.
Ông Hội đồng Hoài ở Mỏ Cày, có người chị ruột là bài Hai Sang, giàu
có, nhưng ăn ở thiếu nhân đức với kẻ dưới tay. Mỗi dân tới mùa cấy, dân
trong làng đều khổ với bà. Mới 4 giờ sáng, bà cho gia nhân đi lùa dân làng
ra ruộng cấy lúa cho bà. Ai có chuyện gì cần thiết, gấp rút cũng không được
miễn. Có điều cấy xong, bà trả tiền sòng phẳng. Còn công việc nhà, công
cấy mà họ đã lãnh tiền trước của chủ điền khác, bà không cần biết, miễn