trị văn hóa của Ai Cập và Sumer (và sau đó là Babylon) đều chỉ có thể
thuyết phục được những người Do Thái yếu đuối và hay thay đổi từ cách
khắt khe của Chúa đang hiện hữu đến việc thờ cúng con bê vàng một cách
dễ dãi.
Chính vì vậy, không phải tình cờ mà những sự tiết lộ cao cả về danh
tánh của Chúa và những điều răn của Ngài đều xảy ra tại một sa mạc có
nhiều núi, càng cách xa sự văn minh và những nội dung của nó càng tốt, ở
một nơi càng không giống những tiên đoán và sự sung túc màu mỡ của sông
Nile và sông Euphrates. Nếu Chúa - Chúa hữu hình, Chúa duy nhất - nói với
con người và nếu có bất kỳ khả năng nào con người có thể nghe thấy Chúa
thì chỉ có thể xảy ra ở một nơi đã bị tước hết tất cả những giá trị liên quan
đến văn hóa, ở đó thậm chí tạo hóa dường như vắng mặt. Chỉ có ở giữa đá
và bụi tàn bạo, sự tập hợp có thể sai lầm này của con người mới có thể hình
dung trở thành người theo một cách mới. Chỉ khi ở dưới mặt trời mà không
hề hối tiếc, trên một ngọn núi không có sự sống, Chúa đang tồn tại mới có
thể phá bỏ những bộ lọc văn hóa thường che chở chúng ta khỏi Chúa: “Đức
Chúa, Đức Chúa” Ngài lớn tiếng với Moshe, lúc đó một mình trên núi:
“Thiên Chúa,
thể hiện lòng thương, thể hiện thiện ý, chịu đựng dai dẳng trong nỗi tức
giận, cố thừa thãi lòng trung thành và chân thành, giữ lòng trung thành đến
thế hệ một nghìn, chịu đựng sự bất công, sự nổi loạn và tội lỗi, nhưng chưa
gột sạch, gột sạch hết (tội lỗi), bắt phải giải thích sự bất công của những
người cha dựa vào những đứa con trai
và dựa vào cháu của mình đến thế hệ thứ ba và thứ tư!
Đây là sự tự miêu tả của Chúa, con người mà Chúa muốn chúng ta nhớ,
Người là Chúa của lòng thương và sự tha thứ, không bao giờ rời bỏ những
đứa con của mình, chân thành đến tận cùng, kiên nhẫn với tất cả những vấp
ngã dù có làm mất hết tinh thần, nhưng nhắc nhở chúng ta rằng một gia đình
- một môi trường gia đình, có ba (hay thỉnh thoảng là bốn) thế hệ - không
thể thoát khỏi những tội lỗi của thế hệ lớn nhất, tất yếu chúng sẽ ảnh hưởng
đến bầu không khí.