mạng, mà người cách mạng thì không được tin vào Chúa. Tôi cảm thấy ông
già mộ đạo ấy là một người thừa trong ngôi nhà này.
Cầu nguyện xong, ông già cẩn thận vuốt mớ tóc và chòm râu bạc, chăm
chú nhìn tôi rồi nói:
– Lão là cha của Andrej. Còn anh là ai? À, ra vậy đấy! Lão lại cứ nghĩ
anh là một sinh viên cải trang.
– Thế sinh viên cải trang để làm gì ạ? Tôi hỏi.
– Ôi dào. ‒ Ông già khẽ đáp. ‒ Dù có cải trang thế nào đi nữa thì Chúa
cũng vẫn biết!
Ông lão bỏ xuống bếp. Tôi ngồi bên cửa sổ và suy nghĩ.
Bỗng tôi nghe thấy tiếng kêu:
– Thì ra anh ta đấy!
Một cô gái vận đồ trắng đang đứng ở cửa bếp. Mái tóc vàng óng của cô
cắt ngắn; trên khuôn mặt mũm mĩm, tái nhợt, ánh lên cặp mắt xanh như
đang mỉm cười. Trông cô rất giống những thiên thần vẽ trong các bức tranh
rẻ tiền.
– Tại sao anh lại hoảng hốt thế? Chẳng lẽ trông tôi đáng sợ lắm sao?
Cô ta nói giọng the thé, run run, rồi thận trọng và chậm chạp bước lại
phía tôi, tay vịn vào tường hệt như đang đi trên một sợi dây tròng trành
căng trong không khí chứ không phải đang đi trên mặt sàn cứng. Dáng đi
vụng về đó càng khiến cô giống như người của một thế giới khác. Toàn
thân cô rung lên như có những mũi kim đâm vào chân, như thể bức tường
đang thiêu đốt những cánh tay mũm mĩm trẻ con của cô. Cả đến những
ngón tay cũng đờ ra một cách kì lạ.
Tôi im lặng đứng trước mặt cô. Một sự bối rối lạ lùng và nỗi thương hại
sâu sắc xâm chiếm tâm hồn tôi. Trong căn phòng tối này tất cả đều thật kì
lạ.
Cô gái ngồi xuống ghế một cách thận trọng, dường như sợ chiếc ghế bay
đi mất. Bằng những lời lẽ không thể giản dị hơn, cô kể với tôi rằng cô mới