những môn cơ bản tạo thành cơ sở của tư duy triết học, ngay tức khắc,
tôi cảm thấy trong lòng một sự trống rỗng, mà từ sâu thẳm của sự trống
rỗng ấy nổi lên - sự buồn ngủ.
Do đó, nếu tôi trả lời được tương đối lưu loát các bài học, thì chỉ bởi
vì tôi có thị giác rất mạnh, cho phép đọc sách từ khoảng cách xa tới hai
hoặc ba hàng ghế. Đôi khi xảy ra trường hợp tôi nghĩ hoàn toàn khác so
với bài bị hỏi, lúc đó tôi lẩn trốn tới cách thức biện minh quen thuộc
thường dùng trong trường hợp như vậy. Thí dụ như tôi nói rằng tôi
không nghe thấy câu hỏi hoặc rằng “run quá”.
Nói chung, tôi là học trò của tương lai, không chỉ vì tôi gây ra sự bất
mãn ở những học sinh từng trải và thiện cảm ở những học trò trẻ tuổi,
mà còn là bởi vì những điểm số tốt từ các môn học và đồng thời với
chúng là hi vọng được lên lớp, tôi chỉ thấy trong giấc mơ, khác xa so
với hiện thực.
Quan hệ của tôi với các giáo viên cũng khác nhau.
Giáo sư môn tiếng Latinh cho tôi điểm không quá tồi vì tôi chăm học
ngữ pháp, môn học cũng do ông dạy. Cha đạo hầu như không cho điểm
tôi, vì tôi đã đưa đến cho cha những câu hỏi khó chịu, để đáp lại, câu
trả lời duy nhất của cha là: “Lesniewski, hãy quỳ xuống!” Thầy giáo
dạy vẽ và viết chữ đẹp thì khen ngợi tôi là một người biết vẽ, song lại
chê tôi với tư cách người viết chữ đẹp; nhưng vì trong suy nghĩ của
ông, nghệ thuật viết là môn học quan trọng nhất trong trường học, nên
khi đánh giá về tôi thì vấn đề viết chữ đẹp vượt lên trên và cho tôi điểm
1, thỉnh thoảng là điểm 2.
Môn Số học tôi hiểu rất tốt, vì bài giảng dựa trên phương pháp tổng
quan, tức là “đánh vào tay” nếu không chú ý. Thầy giáo môn tiếng Ba
Lan tiên đoán ở tôi một tương lai xán lạn, do một lần nhân ngày sinh
của ông, tôi đã làm một bài thơ ca ngợi sự nghiêm khắc của ông.
Cuối cùng, điểm các môn học khác của tôi phụ thuộc vào việc liệu các
láng giềng của tôi có nhắc tốt cho tôi, hoặc quyển sách nằm ở ghế phía
trước tôi có được mở đúng chỗ hay không.